Saturday, May 15, 2010

Happy birthday suc vat ho chi minh suc vat

Happy birthday suc vat ho chi minh suc vat

Một cuộc mua bán đổi chác - Trần Thanh

Một cuộc mua bán đổi chác - Trần Thanh





LỜI GIỚI THIỆU:



Kính thưa quý độc giả, công cuộc đấu tranh chống giặc cộng của chúng ta còn rất nhiều cam go vì có những tên phản bội, đầu hàng giặc, xin được găm xương.



Bọn chúng nó là ai?



Đó là những tên như Nguyễn Hữu Chánh, "tổng thống" của cái gọi là "chính phủ lưu vong" bịp. Đó là tên Nguyễn Bá Cẩn, cũng thành lập "chính phủ lưu vong", đòi kiện việt gian cộng sản ra trước Liên Hiệp Quốc để đòi lại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa giùm cho ... việt cộng! Tên Cẩn đã xuất hiện trên đài truyền hình Sinh Bắc Tử Nam, ba hoa xích chó, dự định về Việt Nam để quỳ lạy bọn giặc, nhưng ông Trời có mắt, hắn chưa kịp về thì đã lăn quay ra chết vì bị đột quỵ!



Sau khi tên Cẩn chết, bọn chó săn vẫn chưa chịu từ bỏ ý định "chính phủ lưu vong" để lừa bịp đồng bào. Bọn chúng đã đưa con gái của Cẩn ra để "nối nghiệp cha"! Những tên hề như Lý Tòng Bá, Nguyễn Văn Chức, Hồ Văn Sinh lại tiếp tục múa may quay cuồng. Năm 1975, Bá và Chức đang mang lon chuẩn tướng, vậy nhưng bây giờ cả hai bỗng trở nên "thiếu tướng"!



Chắc có lẽ "cố vấn tối cao" Nguyễn Chính Kết, đại diện Khối 8406 tại hải ngoại đã gắn lon cho chúng! Tên Kết đã ký giấy bổ nhiệm hai tên hề Nguyễn Xuân Vinh và Nguyễn Văn Canh, thì việc phong cấp cho Chức và Bá không có gì là lạ!



Ngoài những tên hề nói trên, chúng ta thấy có những thằng nhố nhăng khác vừa mới "trúng cử" vào Ban đại diện Cộng đồng Nam Cali. Đó là những tên như Bích Ty, Dương Đại Hải. Đặc biệt, tên Hải có một thành tích nổi bật là chưa hề đi lính một ngày nào mà bỗng nhiên được gắn lon ... "thiếu tướng"!!! (Quý vị có thể xem video trên YouTube, thấy vợ của tên Hải gắn lon thiếu tướng cho y!)



Có lẽ tên Hải sẽ được phong chức "bộ trưởng quốc phòng" trong chính phủ lưu vong bịp của Lý Tòng Bá hoặc Nguyễn Hữu Chánh! Dương Đại Hải là tên điếm, lưu manh đã đi lừa gạt đồng bào qua những dịch vụ địa ốc. Hắn đã bị ca sĩ Mỹ Lan tố cáo trên truyền thông.



Chưa hết, người ta thấy mụ Đỗ Thị Thuấn, chủ nhiệm báo Ánh Dương, tà lọt của Alibaba cũng xuất hiện, lăng xăng chụp hình chung với hai tên Bá và Chức. Còn chần chờ gì nữa mà "chính phủ lưu vong" không phong cho mụ Thuấn chức ... bộ trưởng văn hóa thông tin!



Lòng tham lam và háo danh đã làm cho nhiều người mờ mắt. Họ sẵn sàng phản bội tất cả, kể cả chính bản thân họ để đạt được hai chữ "Danh và Lợi", đúng như "thầy" Quảng Độ đã dạy! Điều mỉa mai là, "danh và lợi" chỉ là những khúc xương cho chó gặm, để rồi bọn chủ chó sẽ giết hết những con chó săn khi thấy không cần chúng nữa!



Xin quý vị đọc câu chuyện dưới đây để thấy tương lai của những con chó săn sẽ bị kết thúc như thế nào ...

========================





Tại phố Bolsa, Little SaiGon, có một cửa tiệm kinh doanh mang tên khá ngộ nghĩnh: "Tiệm trao đổi thời trang cổ điển". Nhiều người tò mò đến hỏi thì được ông chủ tiệm cho biết: những ai có thời trang càng xưa càng tốt, bất luận là Âu hay Á thì có thể đem đến "trao đổi" với ông. Sự trao đổi không có nghĩa là mua bán bằng tiền mà hình thức của nó tựa như thú vui của những người sưu tầm tem, nghĩa là, hai bên có tem quý thì cùng phô bày cho nhau xem, nếu cần thì có một cuộc thương lượng, trao đổi.



Số khách ra vào tiệm không lấy gì làm đông đúc cho lắm, có lẽ vì thương vụ kén chọn nhưng không phải là không có khách. Nhờ thế mà cửa tiệm vẫn sống lai rai, tồn tại được gần chục năm nay.



Một hôm, có một ông lão, tuổi chừng ngoài 70, dáng người cao ráo, lưng hơi khòm, khuôn mặt đẹp lão, bước vào cửa tiệm.



Ngồi bật ngửa trên chiếc ghế bành trong tiệm là một gã đàn ông trung niên, khuôn mặt tròn quay như mặt heo, nung núc những thịt. Gã để râu mép và có cặp môi mỏng, láng bóng như thoa mỡ. Gã đang mơ màng nghe nhạc Trịnh Công Sơn và phì phèo điếu thuốc lá. Vừa thoáng nhìn thấy có vị khách, gã bật dậy như lò so và tuôn ra một tràng mời gọi chuyên nghiệp:



- Chào .... hiền huynh! Gớm, lâu nay hiền huynh biến đi đâu mà đệ không gặp!



Gã chủ tiệm có biệt hiệu là "Hải Heo", dân Hải Phòng chính cống, đảng viên cộng sản lúc mới 20 tuổi, làm việc ở sở công an Hà Nội. Khi toàn bộ các nước cộng sản ở Ðông Âu thình lình bị sụp đổ năm 1989, gã được cục tình báo cho trà trộn vào đám người vượt biên qua Hồng Kông, rồi sau đó gã được đi định cư tại Mỹ dưới dạng "tỵ nạn chính trị"! Sang bên Mỹ, Hải Heo gia nhập đảng Vịt Tiềm. Nhờ có sẵn kinh nghiệm trong ngành tình báo và có máu lưu manh, điếm đàng bẩm sinh nên Hải Heo hoạt động rất tích cực, rất có hiệu quả, đem lại nhiều đô la cho đảng. Nhờ thế, nên chỉ trong một thời gian ngắn, Hải đã được đề bạt vào trung ương đảng của đảng Vịt Tiềm, chuyên phụ trách công tác "từ thiện" và làm chủ cơ sở kinh tài cho đảng, núp dưới danh nghĩa "tiệm trao đổi thời trang cổ điển"!



Ông cụ, tên thường gọi là "bác Bảy", hơi ngỡ ngàng vì lối chào hỏi mang tính cách giang hồ võ hiệp của gã chủ tiệm. Thật ra, Hải Heo có thói quen gọi bất cứ người khách hàng nào mới quen là "hiền huynh" và câu đầu môi chót lưỡi của gã là "lâu nay hiền huynh biến đi đâu mà đệ không gặp", ra vẻ như hai người đã quen nhau từ lâu nhưng sự thật là mới gặp lần đầu!



Ông Bảy chưa kịp trả lời trả vốn gì thì Hải Heo lại tuôn ra thêm một tràng súng liên thanh nữa:



- Hiền huynh có thời trang cần trao đổi phải không? Áo vàng, áo đen hay sọc dưa? Mấy quyển lịch? Trước khoai mì hay sau khoai mì?



Ông Bảy ú ớ trước những ngôn ngữ đầy mật mã của gã doanh nhân mặt heo, có đôi môi mỏng dính. Ông hỏi:



- Anh nói gì tôi không hiểu?



Hải Heo cười hì hì:



- Gớm, hiền huynh ngây thơ quá. Ðệ phải "mã hóa" ngôn ngữ để trách sự tò mò của người ngoài ấy mà! Áo đen tức là "linh mục", áo vàng tức là "thầy chùa", áo sọc là "tù chính trị"; mấy quyển lịch tức là ở tù mấy năm; trước "khoai mì hay sau khoai mì" tức là trước năm bảy nhăm hay sau năm bảy nhăm!



Ông Bảy thở phào:



- À, tôi là "áo sọc dưa"! Mười lăm quyển lịch!



Thấy gặp đúng đối tượng, những cái mỏ vàng mà mình đang cần khai thác nên Hải Heo mừng rơn. Gã vội vàng xởi lởi:



- Mời hiền huynh an tọa. Hiền huynh cần dùng gì; trà, cà phê hay thuốc lá? Cửa tiệm của đệ có hệ thống thông hơi, cứ việc hút thuốc thoải mái!



Sau một hồi trầm ngâm và dè dặt, ông Bảy mới vào đề:



- Nói thật với anh, chuyện này tôi đã suy tính cả năm nay, bây giờ tôi mới quyết định tìm đến anh ....



Vốn trước đây đã từng làm ma cô trong động đĩ nên Hải Heo rất rành tâm lý của những cô con gái nhà nghèo, vì hoàn cảnh mà phải đi bán trinh, bán thân xác của mình. Cô nào trước khi quyết định trao thân gởi phận cho mụ tú bà, cũng có đôi lời tâm sự của loài chim biển! Do đó, Hải Heo vội cho ông Bảy uống một ly nước đường cho hạ bớt hỏa:



- Hiền huynh đừng có lo, đệ mát tay lắm. Ðã có nhiều ông "áo đen", "áo vàng", "áo sọc" đến đây, đệ gây dựng sự nghiệp cho họ, bây giờ ai cũng trở thành triệu phú, cơm no bò cỡi, vừa có tiền mà lại được người đời kính trọng là những ân nhân chuyên làm việc .... phước đức! Thế, hiền huynh mười nhăm quyển lịch, có dính tí chút "áo đen, áo vàng" hay không? Càng nhiều "áo" thì càng tốt, giá càng cao! Nếu có thêm tí chút "Quốc Dân Ðảng" hay "Ðại Việt" thì càng tốt!



Ông Bảy nói dè dặt:



- Hồi còn trẻ tôi có đi tu một thời gian nhưng sau đó bỏ tu, đi đăng lính ....



Hải Heo cười vui:



- Ấy, thế là tốt quá rồi. Chỉ cần trây máu ăn phần, có dính chút đỉnh tôn giáo vào thì càng ăn chắc, tựa như mặc áo giáp vậy. Bố thằng nào dám đụng đến hiền huynh! Tu sĩ mà "trước khoai mì" (trước năm 1975) thì giá càng cao. Sau bảy nhăm thì người ta chê là tu sĩ .... quốc doanh! Thôi, bây giờ ta vào thẳng vấn đề: hiền huynh có thể tóm gọn cho biết sơ yếu lý lịch được không, nếu thấy được thì chúng tôi "mua" ngay!



Ông Bảy:



- Tôi đã từng là tướng hai sao, đã từng là bộ trưởng, tù cải tạo 15 năm, thêm 5 năm quản chế là 20 năm! Ðã từng là "tu xuất", có ba bằng đại học, đã từng đi du học Huê Kỳ ba lần .... Ông cần .... trả giá bao nhiêu?



Hải Heo lộ vẻ mừng rỡ ra mặt:



- Nói thật với huynh, đệ đang dự trù thành lập .... chính phủ lưu vong để kịp về dự "đại hội việt kiều" vào cuối năm nay! Người như huynh thật là phù hợp. Nếu huynh đồng ý thì đệ sẽ thảo luận với đồng chí tổng bí thư là xong ngay! Ðệ sẽ "cơ cấu" huynh làm .... tổng thống lưu vong, sẽ có đầy đủ ban bệ phục vụ, không thua gì hồi trước "khoai mì" mà huynh đã từng một thời có giá! Ðó là phương án một. Còn phương án hai là, đệ đang chuẩn bị thành lập một tổ chức, gọi là "Phong Trào Dân đen đòi lại tên đường phố cũ". Tổ chức này thì phải kiếm một thằng linh mục hay thằng đầu trọc cầm đầu thì mới có "uy tín" đi .... quyên tiền! Huynh sẽ là phó chủ tịch để gây thêm thanh thế, tạo thêm sự tin tưởng! Phương án một, huynh sẽ là nhân vật số 1, có "quyền thế", không dưới cơ ai hết nhưng hơi ... ít tiền! Còn phương án hai, huynh chỉ là phó chủ tịch nhưng bảo đảm sẽ có nhiều tiền, cơm no bò cỡi, gái chân dài phục vụ quanh năm suốt tháng! Ðấy, tùy ý huynh muốn lựa chọn phương án nào cũng được. Còn về giá cả thì chúng tôi tạm đưa ra cái giá như thế này .... huynh cứ về nhà tham khảo rồi cho đệ biết ý kiến ....



Nói xong, Hải Heo đưa cho ông Bảy một tờ giấy. Ông liếc nhìn sơ thì thấy hai chữ "bảng giá" to tổ bố nơi đầu trang, bên dưới liệt kê nhiều chi tiết về những chiếc "áo", cùng giá cả cụ thể! Ông Bảy hơi tần ngần, nói với Hải Heo:



- Thật ra, tôi không có tham vọng làm .... tổng thống. Già rồi, đâu còn sống bao nhiêu năm nữa. Tôi làm phó chủ tịch Phong Trào cũng được, nhưng không biết công việc có khó khăn gì hay không, mà sao Phong Trào mang cái tên lạ quá, Phong Trào Dân Ðen đòi lại tên đường phố cũ!



Như được gãi trúng chỗ ngứa, Hải Heo vỗ đùi đánh đét:



- Ấy, tại hiền huynh không biết. Phong Trào Ðòi .... chính là cái mỏ đô la đấy, đào mãi cũng không bao giờ hết! Ðịt mẹ, mình làm .... "chính trị" thì phải biết bắt mạch quần chúng xem họ thích cái gì, họ ghét cái gì! Tâm lý chung của người dân miền Nam là rất ghét những cái tên đường phố mang tên những thằng việt cộng, ví dụ như Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Lý Tự Trọng, Lý Chính Thắng .... Ví dụ như tên đường cũ là Phan Thanh Giản thì tại sao lại đổi thành Ðiện Biên Phủ, tên đường cũ là Lê Văn Duyệt thì tại sao lại đổi thành Cách Mạng Tháng Tám! Ðại lộ Thống Nhất mắc mớ gì đổi thành đại lộ Lê Duẩn! Chắc huynh còn nhớ hai câu thơ dân gian chứ:



Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý

Ðồng Khởi lên rồi mất Tự Do!



Cứ gãi đúng chỗ ngứa của bọn việt kiều ở hải ngoại rồi nói khích bọn chúng "đấu tranh" thì tiền đô la mình cứ lượm gọi là mệt nghỉ! Cứ kêu gọi đồng bào, quyên tiền họ, để mình thuê mướn luật sư, kiện bọn cộng sản ra trước ... Liên Hiệp Quốc để đòi lại những tên đường phố cũ, địt mẹ, chỉ trong vòng vài tháng, tôi dám bảo đảm với huynh là mình kiếm được bạc triệu dễ dàng mà không phải đổ một giọt mồ hôi!



Những điều Hải Heo vừa nói là rất đúng sự thật, làm cho ông Bảy không khỏi choáng váng vì sự thật nó quá phũ phàng như vậy! Như để chứng minh cho lời nói của mình, Hải Heo kể lể thành tích của bản thân:



- Nói thật với huynh, gần 20 năm nay định cư trên nước Mỹ, đệ chưa bao giờ phải đi cày một ngày nào cả. Tất cả sự giàu có, vinh thân phì gia của đệ là đều nhờ vào sự .... ngu dốt của cái đám việt kiều chống cộng! Bọn chúng như đám trẻ con mẫu giáo, thấy sao tin vậy, nghe nói gì tin nấy; nhờ thế, những Phong Trào "đấu tranh" mới có đất sống! Huynh cứ tin đi, nếu Phong Trào này của mình thành công thì đệ sẽ lập nên một cái Phong Trào khác, chuyên đòi lại tên cũ cho các trường học! Ví dụ như trường nữ sinh Gia Long thì việc đéo gì phải đổi lại thành ra trường Nguyễn Thị Minh Khai! Mình cứ nói khích như thế, những con lợn ngu ngốc nó lại nộp tiền cho mình để mình "thuê" luật sư đi kiện cộng sản ra trước ... Liên Hiệp Quốc! Ðịt mẹ, cứ như thế, hết Phong Trào này lại đến Phong Trào khác, cuộc sống của chúng ta sẽ mãi mãi là đế vương! .... Ấy, đó là chưa kể, đệ còn đang dự định sản xuất ra mấy cái DVD "chống cộng", tiết lộ những "sự thật" về cuộc đời của bác Hồ. Cứ kiếm một thằng đầu trọc hoặc một thằng ma đen nào, cho bọn chúng đứng đầu Phong Trào, đi rao bán DVD, chắc chắn là nhất bản vạn lợi!



Ông Bảy làm bộ đưa ra một thắc mắc, thăm dò ý của Hải Heo:



- Mình mang danh là những người chống cộng thì phải làm sao cho chế độ cộng sản bị sụp đổ như ở Ðông Âu hồi năm 1989. Nếu mình chỉ đấu tranh đòi những cái lặt vặt, như đòi lại tên đường phố thì e rằng có ngày người dân sẽ nghi ngờ tụi mình thì sao?



Hải Heo bỗng phì cười vì những phát biểu ngây ngô của ông Bảy:



- Gớm, cái bác nhà này! Chả trách vì sao mà chế độ cộng sản vẫn còn đứng vững từ sau năm 1975 đến nay, ấy là nhờ có những người ngây thơ như bác! Mình "chống cộng" thì phải biết làm sao nuôi cho cái chế độ cộng sản nó vẫn tiếp tục còn tồn tại. Chớ nếu để nó sụp đổ thì những thằng .... ăn bám như mình sẽ chết đói! Ðây này, đệ kể cho huynh nghe điều này, tin hay không là tùy: - đệ thường đến chơi nhà bác Hồ Ai Da, đầu nậu văn nghệ, đêm nào cũng thấy bác thắp nhang cầu xin cho chế độ cộng sản đừng có ... sụp đổ! Mẹ kiếp, cái bi-di-nịt (business) "từ thiện" của bác đem lại cho bác lợi nhuận hàng triệu đô la hàng năm đấy, không phải chuyện đùa! Thế nhưng khi bác xuất hiện trên đài truyền hình, trên băng nhạc thì mọi người ai cũng tưởng bác là người hùng chống cộng, chống từ trong tủy xương chống ra! Ðời nó đểu thế đấy!



Nói tóm lại, chúng mình phải làm giống như mấy thằng bác sĩ điếm đàng, trị bệnh nhưng không bao giờ trị cho hết hẳn, để cho bệnh nhân cứ phải đến cống nạp tiền suốt đời!



Những lời nói của tên ma cô Hải Heo như từng nhát dao cứa vào trái tim của ông Bảy. Ông vẫn biết, khi ông chấp nhận bước chân vào động điếm này để rao bán "áo" thì danh dự và nhân phẩm của ông không còn nữa. Con người của ông đã biến thành đống cứt. Nhưng cuộc đời vốn dĩ éo le, đôi lúc hoàn cảnh dồn đẩy con người ta vào bước đường cùng, cộng thêm với lòng tham bẩm sinh ai cũng có, làm cho nhiều người không còn giữ "tiết hạnh khả phong" được nữa. Ðể tránh phải nghe thêm những lời nói tra tấn, ông Bảy cáo từ:



- Ðể tôi về nghiên cứu cái "bảng giá" rồi tôi sẽ gọi lại anh sau ... Nếu được thì tụi mình sẽ hợp tác ...



Hải Heo vui vẻ bắt tay:



- Thế nhé, hiền huynh. Quyết định càng sớm càng tốt. Hiền huynh có cái "áo", bọn này có tiền. Tụi mình hợp tác trên cơ sở hai bên cùng có lợi!





**********************************************



Gia đình ông Bảy sang Mỹ định cư khá muộn màng vì ông bị tù đày gần 20 năm. Khi mang được vợ con sang Mỹ thì ông đã ngoài 60 tuổi, cái tuổi lỡ thầy lỡ thợ, hầu như không xin được bất cứ một việc làm gì nữa. Ðúng ra, ông có ba văn bằng đại học, đã từng được đào tạo về kỹ thuật tại Mỹ trước năm 1975. Nhưng khoa học kỹ thuật trong thế kỷ 21 thay đổi nhanh như chong chóng. Một kỹ sư tốt nghiệp chừng ba năm mà không xin được việc làm thì có nguy cơ cái bằng kỹ sư đó đem liệng thùng rác! Ðó là giới trẻ, dân Mỹ chính cống mà còn bị như vậy, huống chi cái bằng kỹ sư của ông đã tốt nghiệp hơn 30 năm về trước! Do đó, khi sang Mỹ, ông chỉ trông mong vào số tiền trợ cấp của chính phủ, vốn dĩ rất eo hẹp, mỏng như chiếc lá. Muốn có thêm thu nhập, hai vợ chồng ông và mấy đứa con phải tích cực đi cày và đành phải chấp nhận đi làm những công việc rất hèn kém như đi làm bồi bàn, rửa chén, chùi cầu tiêu ..v..v..



Ðúng ra, sau khi định cư tại Mỹ được ba năm thì có người biết danh tiếng của ông từ hồi trước năm 1975, đến móc nối, xúi ông ra làm chủ tịch cộng đồng, làm thủ tướng hoặc tổng thống .... lưu vong! Nhưng ông Bảy đã khẳng khái từ chối vì ông biết rất rõ, đó chỉ là cái đám chính trị gia xôi thịt, chỉ đi làm tay sai cho cộng sản, phản dân hại nước, lừa gạt đồng bào! Ông khẳng khái tuyên bố:



- Chẳng thà đi rửa chén trong tiệm phở còn hơn đi lừa gạt đồng bào như cái đám Hoàng Cơ Minh!



Và ông đã chấp nhận đi làm bồi bàn trong tiệm phở. Tuy đã ngoài 60 tuổi nhưng nhờ hồi còn trai trẻ ông đã từng là võ sư thái cực đạo đệ tam đẳng huyền đai, thường xuyên rèn luyện thể lực cho nên ông còn nhanh nhẹn, làm việc xốc vác không thua gì những thanh niên trẻ. Sự cực nhọc về thể xác trong nghề bồi bàn, ông thừa sức chịu được vì nếu so với những lao động khổ sai trong trại tù cộng sản thì không thấm vào đâu hết. Tuy nhiên, sự đau đớn về tinh thần là một thử thách quá mức mà cuối cùng ông đã phải đầu hàng. Khi còn bị tù cộng sản, một ngày như mọi ngày và liên tiếp trong 15 năm, ông phải nghe những thằng quản giáo chửi bới, nguyền rủa, lên mặt dạy đời nhưng ông vẫn coi như pha vì NÓ LÀ KẺ THÙ và mình là người bị bại trận. Nó chửi thì nó .... nghe, mình cứ coi như đó là những tiếng chó sủa ban đêm!



Kẻ thù chửi thì mình chịu được nhưng nếu chính những người thân, những người cùng giới tuyến mà chửi thì nỗi đau đớn về tinh thần nhân lên gấp triệu lần! Ðây là sự thử thách rất lớn mà hầu như chỉ có những bậc thánh nhân siêu phàm mới vượt qua nổi.



Ðầu tiên, khi mới bắt đầu đi làm bồi bàn trong tiệm phở, ông đã được hân hạnh nghe thằng me-ne-dơ (manager) Tám Lác chửi đổng, cốt ý để dằn mặt ông:



- Ðù má, tao không cần biết hồi trước năm 1975, thằng nào làm tướng, làm tá, làm bộ trưởng gì. Vô đây làm là phải siêng năng, hễ lười biếng là tao đuổi việc liền! Ðù má, vô đây làm là coi như đi ở đợ, cơm ăn ngày ba bữa, áo quần mặc suốt ngày, tiền mặt năm đồng một giờ, sướng như tiên, còn muốn nỗi gì!



Lúc ông Bảy là cấp tướng, tư lệnh sư đoàn thì thằng me-ne-dơ Tám Lác chưa ra đời. Tuổi đời của nó không bằng tuổi quân cộng với tuổi ... tù của ông! Vậy mà, gặp thời thế thế thời phải thế! Thôi thì cứ giả lơ làm tai điếc cho xong! Tuy vậy, ông Bảy cũng rủa thầm trong bụng:



- Ðù mẹ mày, cái thằng chó đẻ. Trước năm 1975, chỉ cần một ngón tay trỏ của tao chỉ xuống thì từ thằng ông cố nội của mày cũng phải quỳ lạy tao bể đầu sứt trán! Còn về chữ nghĩa, trình độ văn hóa thì nội ba cái bằng đại học của tao cũng dư sức đè chết cả giòng họ nhà mày, có đâu bây giờ mày lại đi "giáo dục" tao!



Thằng me-ne-dơ Tám Lác là dân hai lúa chính cống và hình như nó được thụ thai trong thùng nước lèo và chui ra từ đó, chớ không phải được sinh ra bình thường, qua cửa mình của người mẹ như mọi người. Máu của nó là nước lèo, nghĩa là, nó là mẫu người được sinh ra để làm nghề nấu phở, bán phở và nói năng thô lỗ. Tuy ngôn ngữ của nó thô lỗ như những khúc cặc bò ngâm trong thùng nước lèo nhưng tấm lòng của nó cũng khá biết điều. Nó đã từng nói với ông Bảy:



- Bác Bảy, con nể bác là .... tướng tư lệnh sư đoàn cho nên con cho bác làm việc "văn phòng". Bác làm việc ở nhà trên, chạy bàn, bưng phở, sạch sẽ, khỏi phải rửa chén ở dưới bếp, dơ dáy, cực nhọc!



Ðược ân huệ làm việc "văn phòng", ông Bảy cũng vui nhưng niềm vui ấy không ngờ lại rất ít mà những sự khó chịu, đau đớn về tinh thần lại quá nhiều. Ðó là, rất nhiều lần ông Bảy phải đi bưng phở, phục vụ, hầu hạ cho cái đám du sinh việt cộng từ Việt Nam sang.



Có lần, một đám du sinh 5,6 thằng rủ nhau vào tiệm. Tuy ăn mặc sang trọng nhưng nhìn vào những bộ răng hô và nét láu cá, gian ác trên khuôn mặt, người ta có thể biết ngay đó là những du sinh việt cộng. Ðó là chưa kể ngôn ngữ mọi rợ, cùng tác phong rừng rú của chúng lại càng chứng tỏ chúng là sản phẩm của cái chế độ hung tàn, bạo ngược nhất trên thế giới. Lần đó, ông Bảy được "hân hạnh" phục vụ cái đám mọi rợ, rừng rú này. Vừa ngồi vào bàn, một tên oắt con, mặt mũi vênh váo, kênh kiệu, gọi xách mé:



- Này, cái bác kia!



Ông Bảy quay lại:



- Cậu cần gì?



Tên du sinh việt cộng búng tay đánh tróc:



- Cho sáu tô phở tái-nạm-gầu-gân-sách và sáu cái cà phê tóp óp đờ nai! (top of the line - thượng hạng)



Ông Bảy lúng túng, hỏi lại:



- Cái gì? Cậu nói cái gì?



Gã du sinh trề môi, phô hàm răng hô như răng của Phạm Văn Ðồng:



- Tóp óp đờ nai! Ở bên Mỹ bao nhiêu lăm mà không biết tóp óp đờ nai nà gì à!



Một tên khác vội giải thích cho ông Bảy hiểu:



- Tóp óp đờ nai tức nà cái lồi ngồi trên cái cốc ấy!



Lúc này thì ông Bảy đã hiểu. Ông nói:



- À, cậu muốn cà phê phin!



Mấy tên du sinh khỉ đột phá lên cười. Một tên bình luận, nói oang oang:



- Ðịt mẹ, mấy thằng ngụy dốt quá. Mình nói tiếng Mỹ mà nó đéo chịu hiểu!



Một tên già nhất trong đám, tóc bạc phơ, vốn là nhân viên của đại sứ quán việt cộng, cất giọng nói oang oang:



- Ðịt mẹ, ở trong nước, bọn chúng bị nàm nô lệ cho chúng mình, bây giờ sang bên Mỹ nại đi nàm nô lệ tiếp. Nại đi bưng phở, rửa chén, chùi cầu tiêu. Con cái của bọn chúng đi nàm nghề mát-xa, nàm điếm ở bên này, chúng mình sang đây cứ ... địt bằng thích!



Nói xong tên già này đắc chí cười ha hả, coi tiệm phở như phòng khách của đại sứ quán, coi mọi thực khách xung quanh không ra gì. Lúc này ông Bảy đã bưng cái khay đựng sáu tô phở tới. Nghe tên già cán bộ cộng sản công khai sỉ nhục những người quốc gia, ông giận run lên. Ngay lập tức, ông thoáng có ý nghĩ:



- Hay là mình ụp luôn tô phở nóng hổi lên đầu thằng chó già việt cộng này, rồi dùng võ công bẻ cổ luôn sáu thằng cộng sản này, rồi muốn ra sao thì ra!



Hai bàn tay của ông Bảy run lên như muốn trở lại thời oanh liệt năm xưa, tay không đấm vỡ mười lăm hòn gạch! Nhưng ông kềm chế lại được. Ðánh giặc hiệu quả nhất là phải đánh bằng mưu trí, bằng ngòi viết chớ không phải bằng những cú đấm. Một ngòi viết có sức mạnh bằng nhiều sư đoàn, trong khi đó, nếu dùng võ nghệ, ông chỉ bẻ cổ được có sáu thằng việt cộng! Nếu bữa hôm đó ông Bảy không nhẫn nhịn, kềm chế được thì ắt hẳn sáu tên việt cộng đã phải ăn phở trộn lẫn mấy cái răng cửa và "tiết canh" của chính bọn chúng hộc ra, do bị trúng những cú đấm thôi sơn!



Ngày hôm sau, ông Bảy xin thằng Tám Lác chủ tiệm:



- Cậu cho tôi rửa chén với chùi cầu tiêu được không?



Thằng Tám Lác tỏ vẻ ngạc nhiên:



- Ủa, sao bác Bảy không thích làm việc "văn phòng" mà lại muốn đi chùi cầu tiêu? Con nói thiệt với bác, con nể bác là tướng tư lệnh sư đoàn, con mới cho bác làm ... "văn phòng", chớ nhiều người muốn cái job của bác lắm mà không được!



Một cậu thanh niên bồi bàn góp ý:



- Bác Bảy à, anh Tám nói đúng lắm. Bác làm việc "văn phòng" tha hồ rửa con mắt. Nhiều em ăn mặc hở hang coi đã lắm!



Ông Bảy nói hài hước cho qua chuyện:



- Tôi già cả mù lòa, thấy gì nữa đâu mà rửa con mắt!



Sau đó, ông "tư lệnh sư đoàn" được bố trí đi chùi cầu tiêu theo yêu cầu của ông. Ông Bảy tự nhủ:



- Chẳng thà nhìn mấy .... cục cứt trong bồn cầu còn sướng hơn là phải nhìn thấy mặt của những thằng du sinh việt cộng, những thằng cán bộ cộng sản ở Việt Nam qua, đi du lịch! Hồi ở trong trại tù, mình đã bị bọn giặc bắt phải dùng tay không bóp cứt cho nhuyễn nát ra để bón rau thì công việc chùi cầu tiêu này vẫn còn quá sướng!



Hàng ngày, trong khi làm việc, ông Bảy thường tâm sự với mấy ... cục cứt trong bồn cầu:



- Mạnh à, Triết à, Dũng à, An à, tụi mày đã bốc mùi thối, tra tấn người dân, bắt toàn dân phải hửi thì có ngày cách mạng sẽ trổi dậy, từng thằng tụi bay sẽ bị treo cổ như Saddam Husein! Ðiều này chắc chắn sẽ xảy ra! Tụi mày có làm tổng bí thơ hay bí đái, làm chủ tịt hay thủ tướng gì thì kệ chó tụi mày. Ðối với tao, tụi bay chỉ là những cục cứt!



Cứ như thế, thời gian trôi qua, ông Bảy đi chùi cầu tiêu đã được gần .... mười năm! Sự việc ông Bảy đi chùi cầu tiêu cho tiệm phở cũng gây ra khá nhiều sóng gió, có người vui thích, có người phản đối, nhưng nói chung, bỗng nhiên ông Bảy trở nên ... nổi tiếng!



Người đầu tiên vui thích và cưng chiều ông Bảy còn hơn chủ gánh cải lương cưng chiều đào kép ruột chính là thằng Tám Lác, chủ tiệm phở. Nó không ngờ, từ khi nó thu nhận ông Bảy vào làm bồi bàn, rồi rửa chén và chùi cầu tiêu thì bỗng nhiên tiệm của nó trở nên đông khách! Cứ người này đồn đãi, truyền miệng người kia, rằng, có một ông tướng hai sao, một thời đã từng làm bộ trưởng, hiện đang làm bồi bàn cho tiệm phở! Mọi người đổ xô đến coi mặt mũi ông tướng đó đẹp xấu như thế nào, và nhất là được hưởng cái thú được chính một ông đã từng là tướng tư lệnh sư đoàn đi phục vụ cho mình! Những kẻ ghét ông Bảy, ví dụ như bọn du sinh việt cộng hoặc nhân viên đại sứ quán thì nhân việc này bọn chúng lấy cớ sai vặt ông cho bõ ghét hoặc chửi bới xấc láo, mất dạy cho xứng đáng với mấy đô la mà chúng đã bỏ ra!



Thằng Tám Lác biết tiệm của nó đông khách là nhờ ông Bảy chớ không phải nhờ phở ngon. Ông Bảy tự nhiên trở thành một linh vật, một lá bùa hộ mạng, đem lại tài lộc cho nó. Do đó, nó tự động ... biết điều, tăng lương gấp đôi cho ông và mướn thêm một người chuyên đi "phụ tá" cho ông Bảy trong việc lặt rau trong nhà bếp và chùi cầu tiêu! Làm nghề chùi cầu tiêu mà cũng có .... phụ tá! Nghĩa là ông Bảy chẳng phải làm gì cả, cứ việc hút thuốc và rung đùi! Hầu như ngày nào cũng có khách đến hỏi thăm ông Bảy và đa số họ là những tai to mặt lớn trong cộng đồng, cho nên thằng Tám Lác rất nể trọng ông Bảy, không dám xấc láo như hồi ông mới bắt đầu vào làm nữa.



Khi hay tin ông Bảy đi làm bồi bàn và chùi cầu tiêu thì một số chiến hữu và thuộc cấp của ông đã đến gặp ông và can gián:



- Thưa niên trưởng, chúng tôi rất kính phục sự thanh liêm và tinh thần trọng danh dự của niên trưởng. Nhưng xin niên trưởng hãy nghĩ lại. Ðây là chuyện danh dự của quân đội và của quốc gia. Dầu gì trước đây niên trưởng đã từng là một vị lãnh đạo cao cấp, nổi tiếng là thanh liêm và là vị tướng văn võ song toàn. Người dân ai cũng kính phục niên trưởng và cho đến bây giờ, trên đất Mỹ, đồng bào vẫn rất kính nể niên trưởng. Do đó, chúng tôi thiết nghĩ rằng cái hình ảnh niên trưởng đi làm bồi bàn và chùi cầu tiêu, e rằng sẽ làm giảm đi sự kính trọng của đồng bào và làm giảm uy tín của quân đội! Tiện đây, chúng tôi xin mạn phép đề nghị, xin niên trưởng thứ lỗi nếu chúng tôi quá lời: - Nếu gia đình niên trưởng đang gặp khó khăn về tài chánh, chúng tôi sẵn sàng đi vận động các chiến hữu và đồng bào giúp đỡ. Thật ra, đây không phải là sự giúp đỡ mà là một sự trả ơn của đồng bào cho những ngày niên trưởng đã can đảm xông pha nơi tuyến đầu chống giặc, đem lại sự bình yên cho đồng bào ....



Tuy nhiên, vốn là người bướng bỉnh và tự ái rất cao cho nên ông Bảy đã gạt phắt đi những lời can gián của bạn bè và thuộc cấp bằng những lý luận:



- Cám ơn lòng tốt của các chiến hữu. Mỗi người có một quan niệm sống. Là một quân nhân, tôi luôn luôn sống và hành động theo mấy chữ "Tổ quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm". Sáu chữ thiêng liêng này đã ăn sâu vào máu tôi khi vừa là sĩ quan mới ra trường. Riêng đối với hai chữ "danh dự" thì tôi cho rằng chẳng thà đi làm bồi bàn và chùi cầu tiêu còn hơn là đi đầu hàng giặc, tuy được vật chất cao sang mà mãi mãi bị người đời khinh ghét! Tôi sống bằng lao động chân chính của tôi, lấy mồ hôi của tôi đổi lấy chén cơm, có gì là xấu hổ và tại sao quý vị lại coi đó là làm giảm uy tín của quân đội? Phải chăng, phải làm như thằng Kỳ, thằng Vinh, đi đầu hàng giặc để được sống trong nhà cao cửa rộng, ngày ngày đi hầu hạ đánh golf cho mấy thằng đầu gấu việt cộng, mới là đem lại "uy tín" cho quân đội?



Quý vị đọc sách chắc cũng biết, rất nhiều bậc thánh nhân sống ẩn dật, rất nghèo khổ nhưng rất được người đời kính trọng; còn bọn đầu gấu việt cộng, băng đảng Việt Tân thì cho dù chúng nó có bạc triệu, bạc tỷ đô la nhưng có người dân nào kính trọng bọn chúng?



Thôi, cám ơn các chiến hữu. Hãy để cho tôi được sống an phận nhưng thanh thản tâm hồn, an bần lạc đạo!



Nhưng sự đời vốn oái oăm. Chính vì cái tật bướng và gàn dở của ông Bảy, đã làm cho ông thêm ... nổi tiếng! Truyền thông của Mỹ, khi hay tin này đã tìm đến tận "văn phòng" ... cầu tiêu của ông Bảy để phỏng vấn, quay phim, chụp hình! Ông Bảy cũng thẳng thắn nói rõ lý do vì sao ông quyết định đi chùi cầu tiêu. Ông nói rõ, chẳng thà nhìn mấy ... cục cứt trong bồn cầu còn sướng hơn là nhìn thấy mặt của những thằng cán bộ cộng sản đi du lịch từ Việt Nam sang hoặc nhìn thấy mặt của mấy thằng băng đảng Việt Tân! Và cuộc phỏng vấn của đài truyền hình Mỹ đã đến tai bọn đầu gấu việt cộng trong bộ chính trị. Bọn chúng rất tức giận, nhưng vốn thâm hiểm, nên chúng quyết định chơi trò "gậy ông đập lưng ông", nghĩa là dùng chính người quốc gia để trị người quốc gia. Một tên đầu gấu đã trực tiếp ra lệnh cho tên tổng bí thư đảng Vịt Tiềm tại Mỹ:



- Bằng mọi giá, đồng chí phải mua cho được thằng Bảy. Hồi trước năm 1975, nó được tiếng là tướng tư lệnh thanh liêm, có tài. Sau năm 1975, nó vẫn được tiếng là thanh liêm nhờ đi chùi cầu tiêu liên tiếp 10 năm, nhất định không thèm bon chen, tranh giành danh lợi. Tiếng nói của nó sẽ rất có giá trị, nhiều người sẽ nghe theo nó. Nếu mua chuộc được nó, chúng ta sẽ thành lập chính phủ lưu vong "Việt Nam Cộng Hòa", cho nó làm tổng thống. Sau khi đặt nó lên ghế tổng thống rồi thì ta sẽ làm một cú như Dương Văn Minh đã từng làm. Ðịt mẹ, một khi nhân vật số 1 của Việt Nam Cộng Hòa đã tuyên bố đầu hàng rồi thì toàn bộ mấy thằng chống cộng ở hải ngoại chỉ còn nước đi ... ăn cứt!!!





******************************************



Tục ngữ Việt Nam có câu:"Có tiền mua tiên cũng được". Tiên ở trên trời mà còn mua được, huống chi ông Bảy chỉ là người phàm mắt thịt! Ông là người quốc gia kiên quyết chống cộng đến cùng. Bằng cớ là ông quyết định thực hiện "tiết hạnh khả phong", liên tiếp 10 năm đi chùi cầu tiêu trên đất Mỹ, để bảo vệ danh dự, phẩm giá cho mình và cho cả tập thể chiến sĩ mà ông đã từng chung vai sát cánh. Nếu muốn, chỉ cần ông gật đầu là bọn chó săn Vịt Tiềm sẵn sàng đưa ông lên làm các chức vụ "chủ tịch", bù nhìn của bù nhìn của bù nhìn, để mỗi tháng được lãnh lương của .... nghị quyết 36, từ 3 đến 5 ngàn đô la tiền mặt! Nhưng ông đã coi khinh và chửi như tát nước vào mặt những tên cò mồi chính trị.



Thế nhưng bọn giặc vốn hết sức quỷ quyệt và kiên nhẫn. Thua keo này, chúng bày ra keo khác. Cái "giá" chúng đề nghị mua ông, theo thời gian cứ tăng lên dần. Và cuối cùng là cái giá quá lớn, đánh đúng vào lòng tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tiền của một người phàm, đã làm cho ông Bảy bị ngã gục!



Sau khi được bọn môi giới nhiều lần gạ gẫm, mách nước, và ông đã mò tới tận văn phòng của thằng Hải Heo để "cò kè bớt một thêm hai", cuối cùng, ông Bảy đã quyết định .... ÐẦU HÀNG VIỆT GIAN CỘNG SẢN! Sau đó, qua nhiều đêm trăn trở, nằm vắt tay lên trán, ông quyết định đem sự việc hệ trọng này để bàn với vợ ông:



- Em à, anh đã suy nghĩ rất kỹ rồi. Từ trước đến giờ, em đã rất ủng hộ anh trong việc giữ gìn "tiết hạnh khả phong", nhất định không bao giờ đầu hàng bọn giặc. Anh rất cám ơn em trong việc đã cùng anh chiến đấu chống lại sự tấn công của bọn giặc ngay trên đất Mỹ. Nhưng, em ơi ..... vừa rồi, anh đã tiếp xúc với thằng Hải Heo thì nó cho biết, tụi đầu gấu trong bộ chính trị quyết định mua anh với giá rất cao chưa từng thấy. Tụi nó nói đây là "final price", nếu anh không chịu thì tụi nó sẽ tìm người khác! Thằng Kỳ, bạn của anh ở Việt Nam cũng đã gọi điện khuyên anh là nên chấp nhận cái "deal" (áp phe) này vì chính bản thân nó hồi trước, bán mấy cái "áo" của nó cũng không được giá hời như vậy! Nó cứ nhắc lại những kỷ niệm "gái góa ba năm, thuốc ngon nửa điếu, chim câu mới ra ràng"!



Bà Bảy hỏi:



- Vậy tụi nó trả giá bao nhiêu?



Ông Bảy nói thì thầm:



- Tụi nó trả giá .... hai triệu đô la! Ðiều kiện tụi nó cho cũng rất rộng rãi, nghĩa là, mình có thể chọn vài ba người nào mà mình rất tin tưởng, để cho những người đó đứng tên trương mục, tụi nó sẽ deposit tiền vào đó. Hoặc nếu muốn, mình có thể mở trương mục ở ngân hàng Thụy Sĩ!



Ðó là cái "óp phơ" (offer) thứ nhất: hai triệu đô la. Chỉ cần anh ký giấy đồng ý làm .... "tổng thống ... lưu vong" thì tụi nó sẽ deposit liền đầy đủ không thiếu một cắc!



Cái "óp phơ" thứ hai còn ngon hơn óc chó: một tòa lâu đài và một trăm hectare "plăng ta xông" (đồn điền) trên Ðà Lạt! Ðặc biệt, tòa lâu đài này chính là của vua Bảo Ðại hồi trước! Nghe nói, hồi trước vua Bảo Ðại thường cùng với Nam Phương Hoàng Hậu nghỉ mát tại tòa lâu đài này. Hằng ngày, vua thường cỡi voi đi săn bắn tại khu vực này! Bây giờ tòa lâu đài này sẽ thuộc về hai vợ chồng mình! Còn một trăm hectare đồn điền là doanh lợi đang hái ra tiền, mỗi tháng có thể kiếm lời ròng gần trăm ngàn đô la nhờ trồng cà phê xuất khẩu và hoa Phong Lan! Ðây cũng là dịp để hai vợ chồng mình được thưởng thức cà phê cứt chồn!



Nghe chồng nói xong, bà Bảy không hề tỏ vẻ gì háo hức. Bà im lặng chừng một phút rồi ôn tồn hỏi tiếp:



- Tụi nó cho anh bao nhiêu gái chân dài?



Ông Bảy tái mặt, nói lúng túng:



- Chân dài chân ngắn gì? Có nhiêu đó thôi. Em sao hỏi nhiều chuyện lắc léo quá!



Bà Bảy vẫn bình tĩnh, ôn tồn:



- Mấy ông thầy chùa, mấy ông linh mục mà còn được cung cấp gái chân dài, không lẽ anh không có? Thôi mà, bỏ đi tám, em sống với anh bốn chục năm nay, biết nhau quá mà. Anh nên thành thật khai báo đi!



Ông Bảy đáp bằng giọng ngượng ngùng:



- Ðây chỉ là cái ... "lặt vặt" cho nên anh không nói, chớ không phải anh muốn che dấu em làm gì: tụi nó sẽ cung cấp cho anh ... mười đứa "thư ký"!



Thật ra, đây là yếu tố quyết định, tựa như giọt nước cuối cùng làm tràn ly, cọng rơm cuối cùng làm oằn lưng con lạc đà. Ðối với mẫu người hào hoa phong nhã như ông Bảy, hình như yếu điểm lớn nhất của ông là .... đàn bà! Khi thằng Hải Heo đưa cho ông coi xấp hình của 10 cô "thư ký" thì ông Bảy choáng váng vì cô nào cũng sắc đẹp nghiêng nước đổ thành. Ðó là chưa kể một vài cô đang là người mẫu và ca sĩ kiêm diễn viên điện ảnh nổi tiếng! Như vậy mới xứng với chức vụ tổng thống ... bù nhìn của ông Bảy chớ! Ðặc biệt, trong số 10 cô "thư ký" thì có một cô là người dân tộc Tây Nguyên chính cống nhưng rất đẹp, có nét hao hao như dân Nam Mỹ. Thằng Hải Heo trân trọng giới thiệu với ông Bảy, cô "Sơn Nữ Phà Ca" này sẽ là người cùng với ông cỡi voi đi săn bắn hoặc cùng thủ thỉ tâm sự với ông dưới trăng mờ bên suối!



Thấy nét mặt của bà Bảy có vẻ bất mãn, ông Bảy vội nói huyên thuyên như để khỏa lấp:



- Em à, chưa hết đâu. Tụi đầu gấu bộ chính trị nói là sau khi anh đồng ý làm "tổng thống" rồi thì tụi nó sẽ đi lượm chừng vài chục thằng .... chó đẻ ma đói nào đó để thành lập nên cái gọi là nội các của chính phủ "VNCH" lưu vong! Tụi nó sẽ ra lệnh cho truyền thông ở hải ngoại đánh bóng "chính phủ lưu vong" do anh cầm đầu. Tiếp theo là tụi nó sẽ tổ chức rầm rộ .... quyên tiền để ủng hộ chính phủ lưu vong, giống y hệt như bọn mặt trận Hoàng Cơ Minh đã làm cách đây 20 năm!



Tụi nó ra lệnh anh giăng một cái bẫy như thế này:



- Phao tin đồn dỏm là nước Việt Nam sẽ chia đôi trở lại như hồi trước năm 1975. Từ vĩ tuyến thứ 17 trở ra thuộc về bọn việt cộng, còn từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào là thuộc về Việt Nam Cộng Hòa do chính phủ lưu vong của anh lãnh đạo. Toàn dân nếu muốn được sống sung sướng như hồi trước năm 1975 thì phải tích cực đóng góp tiền để chính phủ lưu vong có kinh phí hoạt động. Có lý do "chính đáng" như vậy mới dễ quyên tiền! Sau khi quyên được một mớ tiền khổng lồ rồi thì "chính phủ lưu vong" sẽ ... dẹp tiệm, người dân lúc đó có tỉnh ngộ thì đã muộn rồi! Tụi nó dự trù, trong vòng một năm, số tiền quyên được sẽ khoảng chừng 50 triệu đô la tiền mặt, ăn chia tứ lục; bọn việt gian cộng sản được 60%, đảng Vịt Tiềm được 30%, riêng hai đứa mình được 10%, vị chi là 5 triệu đô! Em thấy không, mình không cần làm gì hết, tự nhiên cũng có 5 triệu đô tiền mặt do đồng bào đóng góp! Anh tính nhẩm, hiện nay anh đang lãnh lương chùi cầu tiêu cho thằng Tám Lác, mỗi tháng được một ngàn đô tiền mặt, như vậy, nếu muốn có năm triệu đô la, anh phải chùi cầu tiêu liên tiếp, khoảng ... bốn thế kỷ, mới có đủ số tiền đó! Trong khi đó, chỉ cần anh gật đầu chịu làm "tổng thống" thì tiền vô như nước, xài tới đời con cháu, chắt cũng không hết!



Ðến lúc này bà Bảy mới lên tiếng .... phản đối:



- Anh à, em không đồng ý với anh đâu. Thấy như vậy mà không phải như vậy. Anh đã có kinh nghiệm với bọn cộng sản mấy chục năm nay mà vẫn ngây thơ tin vào lời của bọn chúng hay sao?



Trước hết, em nói số tiền 2 triệu đô la mà tụi nó sẽ deposit vô trương mục của mấy con cháu hay người quen của mình hay kể cả những trương mục bí mật mà mình mở ở ngân hàng Thụy Sĩ. Ðây là số tiền bất hợp pháp, coi như tiền đi ăn cướp cho nên mình không được phép tiêu xài công khai mà phải lén lút qua nhiều trung gian. Khi tụi nó deposit cho mình thì tụi nó đã chuẩn bị sẵn mọi bằng chứng để đưa mình ra trước pháp luật nước Mỹ nếu mình phản phé hoặc sau này người chủ chó thấy con chó đã hết xài thì phải giết con chó. Chỉ cần một lá thơ nặc danh tố cáo với đầy đủ bằng chứng thì sở thuế Hoa Kỳ và cảnh sát FBI sẽ tới tóm cổ mình, ở tù vài chục năm là cái chắc! Em ÐANG LÀM CHUYÊN VIÊN VỀ NGÂN HÀNG nên em hiểu biết một số luật pháp về tài chính và ngân hàng, xin anh hãy nghe lời em! Có tiền mà phải tiêu xài lén lút, lúc nào cũng phập phồng lo sợ bị cảnh sát bắt thì thử hỏi anh sung sướng ở chỗ nào?



Tụi mình bị ở tù thì không nói nhưng những người thân mà mình nhờ vả để giữ tiền giùm cũng bị vạ lây! Tụi nó sẽ mượn tay chính phủ Mỹ để thanh toán mình, anh nên coi chừng!



Tiếp theo, số tiền mặt quyên được nhờ "từ thiện" cũng như vậy, nghĩa là cũng phải tuân thủ theo những quy định của luật pháp nước Mỹ chớ không phải muốn làm sao thì làm. Anh có biết bọn mặt trận Hoàng Cơ Minh trước đây đã bị người dân kiện ra tòa về việc ăn cắp tiền "từ thiện" làm của riêng hay không?



Và cuối cùng là tất cả những gì mà bọn chúng hứa hẹn cho anh ở Việt Nam thì anh nên xem đó chỉ là những bọt biển hoặc mây bay trên trời. Anh đã vác xác về Việt Nam nộp mạng thì coi như con cá nằm trên thớt, tụi nó có thể giết anh bất cứ lúc nào! Hôm nay nó cho anh cái tòa lâu đài và 100 hectare đồn điền cà phê, ngày mai nó lấy lại mấy hồi? Anh có thấy tấm gương của ông Nhất Hạnh hay chưa? Hơn 40 năm cung cúc phục vụ đảng Cộng Sản mà cuối cùng ông ta còn bị đối xử như con chó ghẻ, toàn bộ 40 hectare tu viện Bát Nhã đã bị tịch thu, bỏ của chạy lấy người không kịp! Ðó là luật quả báo!



Anh phải ý thức được, anh làm tổng thống bù nhìn được mấy ngày? Khi tụi nó không cần anh nữa thì tụi nó sẽ giết anh! Anh chết không nói gì mà chỉ tội cho hàng triệu triệu người dân trong và ngoài nước lại bị anh lôi kéo xuống địa ngục! Họ cứ tưởng anh là cứu tinh của đất nước chớ họ có ngờ đâu anh cũng chỉ là một thứ "hoàng cơ minh" tái xuất giang hồ!



Số tiền bất hợp pháp mà đi lường gạt đồng bào, chúng ta không hưởng được mà con cháu cũng không hưởng được. Hơn nữa, con cháu tụi mình đứa nào cũng tốt nghiệp đại học, có nghề nghiệp vững vàng, tụi nó không cần những của phi nghĩa, làm cho tụi nó có thể bị vạ lây và mang tiếng xấu!



Do đó, em khuyên anh là nên từ chối cái cạm bẫy chết người của bọn giặc. Em và anh đã về già, mình còn chung sống với nhau được ngày nào là hạnh phúc ngày đó. Tại sao hạnh phúc mình đang có trong tay lại buông ra để đi đuổi bắt những đám mây bay ở trên trời? Anh thường nói là anh mang ơn em không bao giờ trả được. Bây giờ em chỉ mong anh "đền ơn" em bằng cách hãy an phận cùng nhau sống hết những ngày còn lại trong đời. Ðó chính là anh đền ơn em!



Nghe những lời từ chối thẳng thừng của vợ, ông Bảy thất vọng não nề. Tuy nhiên ông cố nói ngọt để hy vọng cứu vãn tình thế:



- Em à, anh đã từng tâm sự với em rất nhiều lần: trong đời anh, anh mang ơn ba đối tượng sau đây mà anh biết ơn nghĩa này không bao giờ trả được. Ðó là ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ, ơn nghĩa của em, người vợ vĩ đại, và ơn nghĩa của những chiến sĩ dưới quyền anh đã chiến đấu và anh dũng hy sinh để cho anh còn được sống tới ngày hôm nay!



Anh là đứa con bất hiếu. Từ khi bước vào đời làm sĩ quan cho đến khi cha mẹ mất, chưa bao giờ anh bỏ ra vài ngày để hầu hạ cha mẹ, pha trà, rót nước cho cha mẹ uống. Anh đã bị cuốn hút vào công vụ và vào những người đàn bà đẹp hấp dẫn luôn luôn có sẵn bên anh. Và khi xảy ra biến cố tháng 4-1975 thì anh bị đi tù liên tiếp 15 năm. Trong suốt 15 năm đó, chỉ có em là người vợ duy nhất đã kiên trì trèo đèo lội suối để thăm nuôi anh. Trong khi đó thì hàng tá người đẹp đã "từng người tình bỏ ta đi như những giòng sông nhỏ", anh không hề hân hạnh được một người nào thăm nuôi trong suốt thời gian ở tù!



Năm nay anh đã .... 79 tuổi! Nếu trời thương, may ra anh còn được sống thêm ... 10 năm nữa để .... hưởng thụ! Anh hứa với em, lần này làm "tổng thống", anh sẽ cỡi ngựa đưa em đi thăm khắp mọi miền trên Ðà Lạt và Tây Nguyên. Nếu có đi săn bắn trên lưng voi, anh sẽ mời em cùng đi với anh. Nói tóm lại, vai trò của em sẽ không khác gì bà Nam Phương Hoàng Hậu lúc trước!



Năm nay bà Bảy đã 60 tuổi. Trong suốt quá trình 40 năm làm vợ ông Bảy, bà nhận ra được một chân lý là hạnh phúc chỉ đến với con người khi họ vừa mới có nó và sắp mất nó. Ðó là giai đoạn khi bà còn trẻ, là hoa khôi của trường nữ sinh Gia Long áo tím. Lúc ấy ông Bảy là sĩ quan trung úy, đẹp trai, vừa mới đi du học bên Mỹ về. Trai tài gái sắc gặp nhau, họ nhanh chóng trở thành vợ chồng. Khi ông Bảy còn là sĩ quan cấp úy, hai người chung sống với nhau rất hạnh phúc, anh đâu em đó. Nhưng giai đoạn này chỉ tồn tại được 5,7 năm. Sau này, khi ông càng lên lon, lên chức thì ông càng xa lìa người vợ, và khi ông trèo lên cấp tướng thì có khi hai ba tháng ông mới về nhà gặp vợ một lần! Lý do vì ông có quá nhiều vợ nhỏ và nhân tình, nhân ngải vây quanh! Bà Bảy đã phải chấp nhận thân phận cay đắng sống có chồng mà coi như không có trong suốt mấy chục năm, cho đến khi hai người chung sống trở lại trên đất Mỹ. Khi sang Mỹ, bà Bảy cố gắng vừa đi học vừa đi làm, cuối cùng đã tốt nghiệp trường đại học cộng đồng và tìm được một việc làm khiêm tốn trong ngân hàng. Trong khi đó thì ông Bảy cũng đã an phận với chức vụ mà thằng Tám Lác chủ tiệm phở phong cho ông: "me-ne-dơ (manager) chùi cầu tiêu"! Bà Bảy nhận thấy, chính trong giai đoạn hai vợ chồng già sống trong hoàn cảnh nghèo như vầy thì bà mới thực sự có hạnh phúc. Ông Bảy đã hết quyền thế, hết danh vọng, hết tung hoành ngang dọc. Hàng ngày ông an phận chung sống, hú hí với bà, thậm chí có nhiều hôm ông còn làm siêng đấm bóp cho vợ nữa, hoặc dùng khí công đả thông các huyệt đạo cho bà.



Do đó, bà tự nhủ:



- Bây giờ hạnh phúc mình đang có trong tay, nhất định không bao giờ dại dột, thả mồi bắt bóng. Nếu mình để cho thằng chồng mình đi làm "tổng thống" thì chắc chắn người cỡi ngựa chung với nó đi dạo phong cảnh Ðà Lạt phải là một con đĩ chó nào đó, chớ dứt khoát không phải là mình! Ðù má, bọn đàn ông chó đẻ, mười thằng như chục, tao rành lắm rồi! Không, dứt khoát là không bao giờ tao đồng ý cho thằng Bảy ra làm tổng thống, dù chỉ là tổng thống .... bù nhìn! Thằng Bảy nó có nghèo khổ, đi chùi cầu tiêu thì nó mới là của mình. Còn để cho nó làm "tổng thống" thì nó sẽ thuộc về người khác! Ðời chó đẻ, đàn ông chó má! Bây giờ mình mới thực sự là "Nam Phương Hoàng Hậu", hàng ngày mình bắt thằng Bảy nó phải đấm bóp cho mình cho bõ công 15 năm trèo đèo lội suối đi thăm nuôi nó. Hạnh phúc này tuy nhỏ nhoi nhưng quý giá và chắc như bắp, còn cái hạnh phúc "Nam Phương Hoàng Hậu" cỡi ngựa cỡi voi là hạnh phúc ảo, không bao giờ có!



Từ sự suy nghĩ chín chắn này nên bà Bảy trả lời chồng rất dứt khoát:



- Em đã khuyên can anh rồi. Anh đã có mấy chục năm kinh nghiệm đánh nhau với cộng sản, rồi đi ở tù cộng sản 15 năm. Ðáng lẽ chính anh phải là người động viên em giữ vững tinh thần, quyết tâm chống cộng tới cùng, chống cho tới khi nào chế độ cộng sản phải bị sụp đổ. Ðằng này, em không ngờ chính anh là kẻ đã phản bội lại 90 triệu đồng bào, giúp cho bọn giặc tiếp tục củng cố cho cái chế độ phi nhân của bọn chúng được đứng vững. Như vậy, em không còn mặt mũi nào để nhìn đồng bào, để ăn nói với các con cháu sau này. Anh cứ quyết định ra làm "tổng thống" đi. Còn em thì sẽ TREO CỔ TỰ TỬ. Nhục quá rồi, chẳng thà chết chớ sống làm gì để nghe thiên hạ ngàn đời rủa xả!



Thấy vợ phản đối quyết liệt tới mức đòi tự tử, ông Bảy đâm ra hoảng hốt. Ông cố gắng thuyết phục vợ để "thuận vợ thuận chồng tát biển đông", để hai vợ chồng cùng ra mắt thần dân trong và ngoài nước. Người vợ của ông sẽ tiếp tục làm một tấm phông màu trắng để làm cho cá nhân ông như một pho tượng đá đen được nổi bật. Nếu thiếu vắng bóng người vợ thì ông sẽ bị mang tiếng là người "giàu bỏ bạn, sang bỏ vợ". Và nếu con vợ của ông nó phản đối tới mức tự tử thì nguy hiểm vô cùng, hư bột hư đường hết! Làm tổng thống đâu không thấy mà sẽ thấy trước cái viễn cảnh bị cảnh sát Mỹ tống giam và chờ ngày ra tòa thì tiêu tán 79 năm cuộc đời!



********************************************



Suốt tuần qua, ông Bảy đã phải sống trong một tình trạng hết sức căng thẳng, tiến thoái lưỡng nan. Lý do vì ông đã trót đồng ý với đảng Vịt Tiềm, thay mặt cho bộ chính trị của việt cộng, ký kết hàng đống "hợp đồng" làm tổng thống lưu vong và nhiều thứ khác linh tinh. Thằng Hải Heo đã ứng trước cho ông một số tiền để ông đi đến thẩm mỹ viện căng da mặt, tân trang lại sắc đẹp để chuẩn bị xuất hiện trên đài truyền hình SBTN, ra mắt toàn dân. Nó cũng đã sốt sắng đặt may cho ông một số bộ đồ com lê sang trọng, mướn xe Mẹc Xi Ðì và thuê tài xế cho ông, cho ra vẻ là vị "nguyên thủ quốc gia"! Nó cũng đã lượm được một thằng ma đói nào đó, bổ nhiệm vào chức vụ "Chánh văn phòng Phủ Tổng Thống". Vốn là nhà văn cho nên thằng ma đói Chánh Văn Phòng đã soạn thảo gấp bài diễn văn cho ông Bảy và bản Thông Cáo Số 1*, nói về sự "Tái Phân Ðôi" đất nước và giới thiệu đến toàn dân vị cứu tinh của dân tộc, ông Nguyễn Văn Bảy!



Tuy nhiên, bà vợ ông Bảy thì lại phản đối việc làm của ông và hăm dọa sẽ tự tử. Ðiều này làm cho ông Bảy sợ quá, suốt ngày đêm luôn ở nhà, bám sát bà vợ, sợ bà ta làm ẩu! Một hôm, căng thẳng tinh thần quá, ông Bảy quyết định thả bộ ra ngoài khu thương xá Phước Lộc Thọ, ghé quán cà phê Dĩ Vãng chơi cho vơi bớt ưu phiền. Trên đường đi, đầu óc vẫn luôn lo nghĩ về chuyện "quốc gia đại sự", bỗng nhiên ông Bảy cảm thấy chóng mặt, đầu óc quay cuồng rồi té đánh rật ngay trên lề đường. Lúc đang nằm mê man trên mặt đất, ông vẫn nghe văng vẳng tiếng đồng bào la hét:



- Xì trốc, xì trốc (stroke - đột quỵ) Kêu gấp nine one one bà con ơi! Máu mũi, máu miệng chảy ra nhiều, nguy quá!



Khi xe cứu thương chở ông Bảy vào nhà thương thì ông ta đã chết, không kịp trối lời nào với vợ con và với toàn thể quốc dân đồng bào!



Tuy nhiên, lúc bà Bảy cúng 49 ngày thì ngay đêm đó bà thấy ông hiện về. Ông có vẻ hối hận và nói chuyện với bà rất rõ ràng đến nỗi sáng hôm sau bà vẫn còn nhớ như in từng lời nói:



- Em yêu dấu, anh rất hối hận vì đã cãi lời em. Khi sự việc xảy ra thì đã muộn màng rồi! Nhưng nghĩ cho cùng anh thấy anh chết là điều may mắn cho gia đình mình và cho cả dân tộc. Nếu anh còn sống thì những tai họa do anh đem đến cho toàn dân sẽ không thể nào lường nổi! Ôi, tất cả cũng chỉ vì lòng tham. Anh đã "tiết hạnh khả phong" được mười mấy năm, sống êm đềm hạnh phúc bên em, rồi, cũng chỉ vì tham tiền, ham gái mà anh đã phá vỡ tất cả hạnh phúc của chúng mình. Xin em hãy tha thứ cho anh. Anh chết, nguyện sẽ làm con ma linh thiêng phù hộ cho em luôn được may mắn!



Trần Thanh

Ngày 5 tháng 9 năm 2009





=======================================



PHẦN PHỤ LỤC:





Thông Cáo Số 1 của văn phòng Tổng Thống,

Chính Phủ Lưu Vong Việt Nam Cộng Hòa tại hải ngoại.



California, ngày .... tháng .... năm 2009





LỜI KÊU GỌI:



Kính thưa toàn thể đồng bào,



Suốt 34 năm qua, toàn thể đồng bào trong và ngoài nước luôn luôn hướng về lá cờ tổ quốc, cờ vàng ba sọc đỏ thiêng liêng để đấu tranh chống lại bọn cộng sản. Chúng ta đã đạt được rất nhiều thắng lợi và hiện nay, một điềm đại phước cho toàn dân tộc Việt Nam ta, vị cứu tinh Goóc Ba Chớp Việt Nam đã xuất hiện: chiến hữu Nguyễn Văn Bảy, vị cựu bộ trưởng kiêm thiếu tướng tư lệnh đã đồng ý ra gánh vác trọng trách cho đất nước, thành lập chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lưu vong, một thực thể chính trị đang được chính quyền Mỹ và cả thế giới ủng hộ mạnh. Bọn cộng sản khi thấy chính phủ lưu vong được thành lập thì bọn chúng hoảng sợ vô cùng. Vì thế nên bọn chúng đã đề nghị gặp ngài Tổng Thống Nguyễn Văn Bảy để thương lượng.



Sau nhiều lần thương lượng tại Hội Nghị Bàn Tròn tại Pháp thì hai bên đã ký kết Hiệp Ước "Tái Phân Ðôi" vào ngày .... tháng .... năm 2009, gồm những điểm chính như sau:



Ðiểm Một:



Phía Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam do đảng Vịt Tiềm được ủy nhiệm ký tên, sẽ quyết định trao trả lại toàn bộ lãnh thổ và dân chúng lại cho nước Việt Nam Cộng Hòa; nghĩa là lãnh thổ nước Việt Nam sẽ tiếp tục phân đôi ra như trước, theo tinh thần Hiệp Ðịnh Giơ Ne Vơ: từ vĩ tuyến 17 trở ra là thuộc về nước Công Hòa Xã Hội Chủ Nghỉa Việt Nam, từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào sẽ thuộc về nước Việt Nam Cộng Hòa.



Phía chính phủ lưu vong Việt Nam Cộng Hòa do ngài Tổng Thống Nguyễn Văn Bảy đại diện cho toàn thể người dân trong và ngoài nước đã ký tên và đóng dấu.



Ðiểm Hai:



Chiếu theo đúng Hiệp Ðịnh Giơ Ne Vơ và Hiệp Ðịnh Pa Ri, hai bên sẽ tôn trọng chủ quyền và lãnh thổ của nhau. Bên nào vi phạm, sẽ bị đưa ra trước tòa án của Liên Hiệp Quốc để xét xử.



Ðiểm Ba:



Hiệp Ước "Tái Phân Ðôi" sẽ chính thức có hiệu lực kể từ 0 giờ ngày ... tháng ... năm 2010, đúng 9 tháng, kể từ ngày ký Hiệp Ước.



Ðiểm Bốn:



Hiện nay Chính Phủ Lưu Vong đã bổ nhiệm một Thống Ðốc Ngân Hàng quản lý kho bạc và đã mở tài khoản tại ngân hàng Thụy Sĩ để chuẩn bị lo việc quốc gia đại sự. Chỉ còn 9 tháng nữa thì Hiệp Ước Phân Ðôi sẽ có hiệu lực nhưng hiện nay Chính Phủ Lưu Vong không có một đồng xu cắc bạc nào! Do đó, Chính Phủ tha thiết kêu gọi toàn thể đồng bào trong và ngoài nước, nhất là các đồng bào việt kiều Mỹ, xin hãy vui lòng đóng góp gấp cho một số tiền là NĂM MƯƠI TRIỆU ÐÔ LA để Chính Phủ lo việc điều hành đất nước, trả lương cho các ngài bộ trưởng, thứ trưởng trong nội các đã được thành lập.



Ðồng bào có thể đóng góp bằng chi phiếu hoặc ký thác trực tiếp vào tài khoản sau đây, xin ghi:



Mr Hồ Ai Da, đài truyền hình Sinh Bắc Tử Nam

P.O Box ..... Số tài khoản: 123456789

CA .....

USA



Rất mong được đồng bào hưởng ứng mạnh mẽ để chúng ta có thể sống trở lại những ngày hết sức ấm no, hạnh phúc như hồi trước năm 1975, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của vị Tổng Thống anh minh Nguyễn Văn Bảy.



Trân trọng kính chào,

TM Văn Phòng Phủ Tổng Thống



Chánh Văn Phòng đã ký và đóng dấu

Cựu Ðại Tá Nguyễn Xạo

http://www.hon-viet.co.uk/TranThanh_MotCuocMuaBanDoiChac.htm

Sunday, May 2, 2010

Kỷ Niệm ngày 30 tháng 4 và Quốc Tế Lao Động 01-05: Bon Việt gian Cộng Sản đã làm gì cho nhân dân Việt Nam? (NB Viêt Thường – KN2000)

Kỷ Niệm ngày 30 tháng 4 và Quốc Tế Lao Động 01-05: Bon Việt gian Cộng Sản đã làm gì cho nhân dân Việt Nam? (NB Viêt Thường – KN2000)



http://kynguyen2000.blip.tv/

Việt gian Cộng Sản giết 3157 dân Làng Ba Chúc

vc-giet-dan-lang-ba-chuc

Bon việt gian Cộng Sản giết 3157 dân Làng Ba Chúc

Tố cáo tôi ác việt gian Cộng Sản bày trò giết hai 3157 dân lành làng Ba Chúc , bon chúng tuyên truyền láo khoét quy chup tôi ác vô nhân đao do lính Polpot gây nên.



Lễ giỗ tập thể lần thứ 32 nạn nhân bị bô đôi công quân Miền Bắc giả lính Pol Pot thảm sát- Sáng 29-4, Ban quản trị đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở khu dich tích nhà mồ thị trấn Ba Chúc (An Giang) đã long trọng tổ chức lễ giỗ tập thể lần thứ 32 cúng vong linh 3157 nạn nhân dân lành xã Ba Chúc bị thảm sát.



Hơn 2.000 người dân ở 7 khóm ấp cùng thân nhân các nạn nhân đã đến ngôi nhà mồ tập thể thắp hương tưởng niệm dân lành vô tội và thăm hỏi chia sẻ bà con có thân nhân bị giặc sát hại.



Phòng trưng bày hình ảnh hiện vật tội ác chống lại loài người của Cán binh Miền Bác giả lính Pol Pot ở gần nhà mồ Ba Chúc không ngớt người vào xem với tâm trạng kinh hãi và phẫn nộ

Mỗi năm tề tựu về ngôi nhà mồ tập thể này, những nhân chứng sống như bà Hà Thị Nga, ông Bùi Văn Lê, ông Tư Cừu và nhiều người lâm cảnh mồ côi sau vụ thảm sát vẫn còn nhớ như in hình ảnh tội ác trời không dung đất không tha. Ở Ba Chúc, mỗi con người là một câu chuyện day dứt nhưng trong nỗi đau khôn cùng ấy là sự vươn lên mạnh mẽ để có được cuộc sống hồi sinh ý nghĩa như hôm nay.

“Chúng tôi nhắc nhở nhau phải sống làm việc và cảnh giác với giặc ngoại xâm để tránh xảy ra thảm cảnh tương tự” - ông Lê nói.

Ba Chúc - chuyện những con người

Kỳ 1:Ba Lê và tiếng sáo vọng hồn

Tháng 4-1978, hơn 3.000 thường dân vùng Ba Chúc (Tri Tôn, An Giang) đã bị thảm sát dã man. Nhiều nạn nhân sống sót đã trải qua khủng hoảng dữ dội về tấn thảm kịch này. 32 năm sau, Tuổi Trẻ tìm gặp lại những người trong cuộc và lắng nghe cái cách mà con người đi qua những thảm kịch trong cuộc đời...



Người vợ cùng năm đứa con và hàng chục người thân - những gì thiêng liêng nhất - đã bị giết thảm sau lưng ông.

“Tôi thoát chết nhưng trĩu nặng, đau điếng. Tiếng thét kêu cứu của con cứ giằng kéo tôi...”. Nhớ thương, hằng đêm ông thổi sáo, tiếng sáo vọng hồn bao trùm núi Tượng sầu não. “Tôi thổi sáo để được thấy vợ con dù hình dáng xưa là bóng mờ của núi non hay cây cỏ”.

Ông là Bùi Văn Lê, 69 tuổi, ở ấp Thanh Lương, thị trấn Ba Chúc, người làm nghề bốc thuốc nam và là “thầy đờn” tài hoa ở thị trấn Ba Chúc.

Hai lần chết

Đêm. Ba Lê cầm đàn kìm rồi đưa tôi lên núi Tượng. Trên núi có 15 cái hang bên trong còn hàng trăm thi thể đã bị Pol Pot tàn sát dã man. Ông uống rượu và chìm dần trong ký ức của những ngày tháng 4-1978.

“Khi giặc cán binh Miền Bắc giả lính Pol Pot tràn vào Ba Chúc, tôi đưa vợ con cùng người cô ruột lên hang trên núi Tượng trú. Sau tám ngày ẩn nấp, chó săn bắt mùi hơi người. Khoảng cuối giờ chiều, chó sủa, bọn cán binh Miền Bác mở miệng hang xả liền hai băng đạn AK, con tôi đẫm máu khóc thét. Tôi lách người trong vách đá miệng hang, khi nghe chúng bắn hết đạn liền phóng ra, nhưng vừa ra khỏi hang lại thấy hai tên lính việt gian Cộng Sản đứng lăm lăm chĩa súng vào tôi. Tôi lao mình xuống hẻm đá. Bọn chúng quăng hai quả lựu đạn nữa vào hang. Hai giờ sau trở lại, gia đình tôi chết hết, toàn bộ quần áo, vàng vòng chúng lấy đi. Tôi ôm người thân của mình vào lòng chết lặng. Sau đó mình tôi xếp thi thể vợ con nằm ngay ngắn rồi lấp miệng hang cho tới giờ”.

Sau khi đóng cửa hang, Ba Lê đã đến một số hang trên núi báo hung tin và tìm cách đưa khoảng 50 người thân khác trong xóm trốn đi.

Đoàn người theo đường tắt về xã Lương Phi không may lọt vào tầm kiểm soát của cán binh Miền Bắc. Giặc bắn xối xả làm chết trên 30 người. Cả đoàn chạy hoảng loạn, sáng hôm sau gặp tại Lương Phi chỉ còn mười người.

Gặp lại cha mẹ, ông òa khóc: “Con còn sống là trời đẻ lần nữa rồi!”.

Kể đến đây Ba Lê im bặt, bàn tay siết chặt cần đàn như đang kìm nén. Rồi ông lại hát, thỉnh thoảng nghiêng ly đổ ít rượu lễ xuống nền đá nơi một thời loang máu người thân. 3

2 năm qua các miệng hang vẫn được đóng kín. Đêm nay Ba Lê lại thổi một bài sáo vọng hồn.

Năm đó Ba Lê 37 tuổi, có người bảo ông mất trí. Hàng năm trời sống với âm hồn bằng tiếng sáo vi vu từ đồi này sang đồi nọ, tiếng sáo du dương bi ai. Người đồng cảnh dưới xóm khóc ròng. Chính xã đội trưởng là anh Hắng còn than: “Tiếng sáo Ba Lê não nuột quá”.

Ông có tâm sự, có nỗi đau, cộng với tiếng sáo lay động lòng người. Ông cất chòi hai tầng để ban đêm coi rẫy và để được sống gần linh hồn vợ con.

Nhiều bạn bè lên núi an ủi, nhưng Ba Lê vẫn sống cuộc đời ẩn dật giữa vùng núi Tượng.



Bây giờ dẹp đi ống sáo, Ba Lê vẫn cất lên lời ca với cây đàn này, nhưng lòng ông đã nhẹ nhàng, thanh thản hơn - Ảnh: Q.Vinh

Giã từ tiếng sáo

Bà con khuyên giải: “Chú Ba ơi gượng sống lại đi, buồn thảm quá không giải quyết được gì, chú còn có cha mẹ với bệnh nhân mà. Chú đừng thổi sáo nữa”.

Ở Ba Chúc người ta biết Ba Lê là thầy thuốc được ông nội truyền nghề từ nhỏ. Trong những lúc tỉnh cơn mê với ống sáo, những bà mẹ đã bồng con tới nhờ ông trị bệnh. Rồi một ngày những đứa trẻ teo tóp vì bệnh tật đã gợi lại tình cảm về cuộc sống trong chính người đàn ông bất hạnh này.

Ba Lê hồi tỉnh và dần dà tìm lại được ý nghĩa của một cuộc sống hồi sinh từ những nỗi đau cùng tận của mất mát. Nó như cái miệng hang phải liền, như cây xanh phải bám mình xuống chân núi Tượng mà ra trái, ra bồng cho cuộc đời này.


Ba Lê sửa lại ngôi nhà bị trúng pháo dưới chân núi, mở lại phòng thuốc nam, chẩn bệnh bốc thuốc cho người nghèo. Công việc và bệnh nhân ngày một đông dần kéo Ba Lê về với cuộc sống thực tại.

Sau trận thảm sát tàn khốc, môi trường sống ô uế, nhiều căn bệnh bộc phát. Ba Lê phải cử người đi tầm thuốc từ các nơi đem về. Rất nhiều trẻ em bị dịch bệnh hoành hành đã được Ba Lê ra tay chữa trị.

Cuộc sống với Ba Lê dần hồi sinh nhưng hằng đêm ông vẫn lên hang núi thắp nhang chuyện trò với người thân như nhắc nhớ chính mình sống có ý nghĩa hơn.

Rồi một ngày nọ cha ông chọn cho ông một người vợ cùng cảnh ngộ. Người đó tên Võ Thị Châu, cũng là một nạn nhân may mắn sống sót trong vụ thảm sát trong chùa Phi Lai.

Khi giặc tràn vào Ba Chúc đốt phá, bà con chui vào nấp dưới bàn thần trong chùa với hi vọng chốn linh thiêng sẽ không bị tàn sát. Nhưng rồi chúng đã quăng vào chùa hai quả lựu đạn làm 40 người chết thảm, cô Châu là một trong hai người sống sót.

Ba Lê nói đây là cuộc hợp hôn vì chữ hiếu với cha mẹ dòng tộc sau này. Cha mẹ nói phải cưới và sinh con để duy trì nòi giống sau thảm sát. Nhưng lúc đó tim ông chai sạn, ông vẫn hay lên núi thổi sáo.

Một năm sau ngày cưới, bà Châu lên núi nói với Ba Lê: “Thôi đừng thổi sáo nữa anh!”. Nhìn vào mắt vợ, ông thấy trách nhiệm với cuộc đời. Vậy là về. Cất ống sáo. Ba Lê cho biết sự hồi sinh của nhiều gia đình vùng Ba Chúc nhiều khi đớn đau như vậy.

Rồi mọi thứ cũng qua đi, vết thương trong thể xác và tâm hồn cũng lành, cây đâm chồi lộc trên núi Tượng cứ ra hoa kết trái.

Trái ngọt cũng đã đơm trước nhà Ba Lê. Bây giờ họ đã có bốn người con, hai trai hai gái. Các con ông người đi làm ở UBND huyện Tri Tôn, người là học sinh cấp III, đều hiếu thảo và lễ nghĩa.

Ba Lê trở thành người tham gia quản lý di tích lịch sử nhà mồ Ba Chúc. Tiếng sáo ai oán trên sườn núi Tượng bây giờ không còn nữa...

QUANG VINH



Ba Chúc - chuyện những con người - Kỳ 2: Bà Tư và ngôi nhà mồ

Gần 9 giờ tối, bà Tư - Hà Thị Nga, sinh năm 1939, ở ấp An Định A, thị trấn Ba Chúc (Tri Tôn, An Giang) đóng cửa ôm đài nghe cải lương. Bà là nạn nhân may mắn sống sót trong vụ thảm sát năm 1978. Cả dòng họ trên 100 người của bà đã bị việt gian Cộng Sản Miền Bắc giết hại; riêng gia đình bà đã vĩnh viễn mất đi 37 người, từ cha mẹ, anh chị, chồng và sáu đứa con thân yêu.



Bà Hà Thị Nga với ký ức sau lưng - Ảnh: Q.VinH
>>

Người đàn bà nghe đài

Tối nào bà Tư cũng mở đài thật to. Người hàng xóm nói không phải bà ghiền nghe đài, đó chỉ là cách để bà tạm quên đi dĩ vãng đau khổ và để... ngủ được mà thôi! Cửa mở, bà Tư đứng tần ngần thật lâu mới hỏi: “Cậu là ai? Sao tối thế này còn đến đây? Đừng hỏi tôi về chuyện chồng con chết chóc nữa nghen!”.

Câu chuyện về người đàn bà và ngôi nhà mồ chứng tích tội ác đã khó liền mạch ngay từ lần gặp đầu tiên.

Trong đêm, tôi đề nghị bà đưa tôi ra khu nhà mồ cách nhà chừng 200m, bà đồng ý đi như một thói quen. Ngôi nhà mồ tập thể có số bộ hài cốt lên đến 1.151 bộ được ánh sáng đèn bốn góc rọi từ xa xuyên qua tấm kính, phía bên trong ẩn hiện từng ngăn những bộ hài cốt. Những hộp sọ nằm chồng lên nhau, tất cả hốc mắt đều được hướng ra ngoài u uẩn trong đêm. Mưa lất phất, tôi dõi theo xem bà sẽ dừng lại ở vị trí hộp sọ nào. Rất có thể bà sẽ lại đến gần hộp sọ của chồng con. Nhưng bà không dừng lại mà rảo bước quanh nhà mồ, thỉnh thoảng lại cúi nhặt rác cây cỏ trên lối đi.

Bà nói: “Lúc đầu khi mới cải táng tôi còn biết đâu là xương cốt của chồng con, nhưng sau đó các bác sĩ đã sắp xếp phân loại lại theo thứ tự tuổi tác. Bây giờ nhà mồ là máu mủ cốt nhục chung của dân làng Ba Chúc rồi”.

Bà còn nói nhà mồ như chốn thiêng liêng đi xa là nhớ, ở gần rất khó lui chân. Một nhành cây đổ, một đám cỏ dại, những đêm dông gió, những kẻ lạ mặt, một điều gì đó bất thường chạm vào nhà mồ đều làm bà âu lo để mắt.

Đang quan sát về phía cuối nhà mồ, bỗng có người đàn ông say rượu ngả nghiêng, bà Tư nhanh chân đến gần rồi hắng giọng:

“Chú say rồi thì về nhà đi để nhà mồ được yên tĩnh”.

Người đàn ông im bặt lui vào xóm nhỏ. Người đàn ông vừa đi khỏi thì có ai đó đốt rác, bà Tư vội dập lửa vì sợ lửa táp vào nhà mồ. Bà đã tự nguyện làm công việc quản mồ không công từ khi mới bắt đầu gom hài cốt người dân các nơi về đây.

Ngày Ba Chúc vừa được yên bình, người dân đi cất bốc hàng ngàn bộ hài cốt từ các nơi gánh về chất cao ngất ngay phía trước nhà bà. Lúc đó nhiều người đã bỏ xứ ra đi, không muốn chứng kiến cảnh bi thương ảm đạm. Bà vẫn ở lại, chiều chiều ra trước hiên nhà cầu nguyện cho linh hồn người dân Ba Chúc được yên bình cho dù hình hài của họ đã không còn nguyên vẹn.

“Đêm xuống tôi ra với đống xương người, canh chừng sợ gió thổi tắt ngọn đèn, tôi sợ chồng con tôi không thấy đường về nhà. Có lần tôi vừa đốt đèn quay đi được vài bước thì đèn tắt. Vài lần như thế đèn vẫn tắt. Tôi biết là chồng con, người thân tôi không muốn tôi rời xa họ. Tôi nhớ con tôi lắm”- bà Tư nghẹn giọng.

Khi Nhà nước cho xây dựng khu nhà mồ tập thể bà đã tham gia và làm tất cả những gì có thể để như bà nói: “Tâm can tôi được bình yên. Giữ được chữ tình với người đã khuất”.

Từ nhà mồ trở về nhà bà Tư lại thắp nhang khấn vái vong linh, thỉnh thoảng muốn nói điều gì đó với chồng con bà lại lọ mọ cầu kinh thâu đêm. Trong nhà bà không còn nhiều kỷ vật của người xưa. Chái bếp chỉ còn vài cái nồi gọn ghẽ mùi đất nung. Gian nhà sau có cái giường nhưng hàng chục năm qua không ai nằm, chỉ có chồng mâm cao ngất chất gọn góc nhà. Bà nói chồng mâm ấy là tài sản quý giá của bà. Chồng mâm trên 80 chiếc với hàng đống chén đĩa mà bà đã dành dụm tiền mua được để làm giỗ cúng kiếng hằng năm.

Nếu không có số tài sản ấy, bà phải đi mượn của bà con phiền phức lắm. Làng Ba Chúc này nhà nào cũng có người bị giết trong vụ thảm sát, ai cũng phải mua sắm mâm chén, không ai mượn ai được. Trên tường, trong tủ không có bất kỳ tấm ảnh nào của chồng con bà. Tất cả đều bị đốt thành tro bụi...

Sống mà nhớ lấy

Trong ngôi nhà hoang lạnh, bà Tư sống thu người trong khắc khoải hoài vọng. Bà một mình đón từng luồng gió lạ ùa vào nhà. Những luồng khí lạnh, những âm thanh quen thuộc, với bà, là người xưa, là kỷ niệm, ký ức giữa chốn người và những thế giới xa xăm. Bà nói chuyện với con cháu đã khuất mà nghe như bao người mẹ đang sống hạnh phúc với chồng con trong những ngôi nhà khác trên hành tinh này.

Tôi lại theo chân bà Tư ra khu nhà trưng bày hiện vật tội ác của Khmer đỏ nằm gần nhà mồ Ba Chúc. Ở nhà trưng bày người ta gọi bà là người kể chuyện sống động nhất. Bởi bà chính là một trong những nhân chứng sống còn lại dám trải nghiệm với nỗi đau quá khứ bằng những ký ức dữ dội nhất hiện diện từng ngày.

Bà vẫn ở chỗ cũ, trả lời rất nhiều câu hỏi cũ. Năm năm trước những đoàn làm phim, những nhà báo đến, họ hỏi và năm năm sau vẫn câu hỏi ấy, chỉ người hỏi là khác nhau. Còn bà vẫn chỉ có một mình, vẫn những niềm riêng, nỗi chung, vẫn là ký ức, không biết nó có cũ đi hay không nhưng hình như ngày một lắng thành một niềm riêng trong biển lòng của bà vậy.

Hằng ngày bà sống bằng nguồn tiền bán nước giải khát cho học sinh ở trường trung học gần nhà mồ. Cánh xe ôm vẫn thường gọi bà bằng má Tư, bà có rất nhiều con cháu gần xa hay ghé thăm thân mật. Nhìn bà nựng nịu trẻ thơ trong xóm ai cũng muốn vui lây. Công việc quản mồ giờ cầu kinh sớm tối, ngày rằm ngày giỗ cứ thế vần xoay. Nhiều lần ghé thăm, thỉnh thoảng tôi lại nghe bà báo tin con cháu vừa hạ sinh đứa con trai, con gái. Dòng họ Hà của bà đang hồi sinh đấy thôi.

Tôi hỏi bà có mong muốn gì cho riêng mình, bà nói biết mình muốn gì nhưng lại nói không được. Vẫn còn đâu đó những đau thương của một đời người. Nhưng nếu đau thương mà làm điều ác thì sẽ lại gây thêm nỗi đau cho chúng sinh. Bởi bà cũng là một người vợ, người mẹ, một người phụ nữ như bao phụ nữ VN đã chịu quá nhiều đau khổ trong những cuộc chiến tranh đẫm máu ở vùng đất thiêng Ba Chúc này.

Ừ thì quá khứ, hãy để nó là bài học cho nhân loại. Bà sống và chăm sóc nhà mồ với cả ngàn linh hồn này, cũng như là một chứng nhân cảnh tỉnh con người, rằng: hãy đau về tội ác để đừng bao giờ cho phép nó lặp thêm lần nữa!

QUANG VINH

_________________________

Câu chuyện về hàng trăm đứa trẻ mồ côi của làng Ba Chúc ngày ấy đã chia ngọt sẻ bùi, nương theo tiếng gõ mõ và ánh đèn đêm tụ tập, vần đổi công, dựa vào nhau mà sống, mà lớn và gầy dựng tương lai cuộc đời.

Kỳ cuối: Từ ánh lửa mồ côi

_____________________

Ngủ trong nhà của Ba Lê, 5g sáng tôi đã thấy vợ chồng ông thức giấc nhang khói cầu nguyện cho người đã khuất. Làng xóm Ba Chúc cũng thức rất sớm, tiếng cầu kinh vang vọng lan truyền từ nhà này qua nhà khác. Lúc ấy có một người đàn bà lặng lẽ thức dậy thắp từng ngọn đèn trong căn nhà mồ tập thể, nơi 1.159 bộ hài cốt còn lưu giữ...

Kỳ tới: Bà Tư và ngôi nhà mồ



Ba chúc - chuyện những con người

Kỳ cuối: Từ ánh lửa mồ côi

Ông Lê Văn Tám sinh năm 1966, ở khóm An Định A, cho biết sau chiến tranh ở Ba Chúc có hàng trăm trẻ mồ côi. Trưởng khóm An Định B nói với chúng tôi trong khóm có 352 hộ thì khoảng 50 hộ có thân tộc cha mẹ bị thảm sát và lâm cảnh sống mồ côi. Kể rằng những đứa trẻ mồ côi thời ấy đã sống nương tựa vào những hiên chùa, những tấm lòng cưu mang của chòm xóm.



Đường vào Ba Chúc hôm nay- Ảnh: Q.VINH


Những ngôi nhà mồ côi

Ông Tám kể:

“Năm đó, một người chị và bốn đứa em cùng gia đình chú Út của tôi đã chết hết. Khi tản cư từ Kênh Đào (Châu Đốc, An Giang) về Ba Chúc, xóm làng đã cháy rụi. Anh em tôi không nơi nương tựa, lúc nào bụng cũng đói. Ngày nào cũng thấy người ta chở người bị thương do mìn pháo của Pol Pot, ngày nào cũng có người đi rẫy hay ra đồng bị trúng mìn mini của giặc cài lại”.

Cái chết vẫn còn treo trên những mái đầu trẻ thơ mất cha mất mẹ.

Tôi ghé nhà ông Nguyễn Văn Nghiệp, ở khóm An Định A. Nhà ông có 13 người thì đã bị Khmer Đỏ giết 11 người. Hai anh em Sáu Nghiệp và Bảy Nhân do bị trúng pháo mấy ngày trước đang được đưa đi chữa trị mà thoát chết.

Ông Nghiệp kể lúc đó trẻ mồ côi phải bám víu vào những người thân. Ông về sống với người bác ruột. Nhưng trong nhà người bác cũng có năm đứa trẻ mồ côi nheo nhóc khác được cưu mang.

“Mấy đứa rủ nhau đi chài cá, mò cua bắt ốc hay nhổ bàng cả tuần mới về - ông Nghiệp nhớ lại - Anh em hồi đó vận động cùng nhau làm vần công, không làm đơn lẻ để vơi nỗi buồn và bớt sợ ma. Tối đến hàng chục đứa trẻ mồ côi từ các nơi theo âm thanh gõ mõ, theo đốm lửa đêm lại tìm đến với nhau dựng chòi ở chung để thấy mình không còn đơn chiếc nữa. Những lúc buồn trong đêm chỉ cần một đứa khóc cả đám khóc theo gọi cha gọi mẹ vang cả rừng”.

Đến năm 1980 anh em của Văn Tám, Sáu Nghiệp, Bạc, Muôn, Ngàn... đã tổ chức lại cuộc sống tự lập. Họ tiếp tục sẻ chia, ông Nghiệp chỉ tay về hướng có những chòm nhà mà chủ nhà là những người bạn mồ côi thời trẻ con với nhau, rồi nhíu mày kể tiếp: “Phải cật lực làm để dằn nỗi thương nhớ và hận thù, để cho vong linh cha mẹ bình an siêu thoát”.

Và cuộc sống vẫn đâm chồi

Khi những đứa trẻ mồ côi đến tuổi trưởng thành, những bậc trưởng lão trong xã đã mai mối xe duyên cho họ.

Bà Huỳnh Thị Vĩ cũng là một đứa trẻ mồ côi sau chiến tranh, năm 21 tuổi đã được mai mối làm vợ Sáu Nghiệp. Bà Vĩ kể ngày cưới, hai vợ chồng chỉ có một chỉ vàng sính lễ. Những cặp “lương duyên mồ côi” đã dành toàn bộ tình thương cho con cái cháu chắt.

Ba người con đầu của vợ chồng ông bà Nghiệp - Vĩ bây giờ đều là giáo viên cấp II và người con út đang là sinh viên khoa sư phạm kỹ thuật nông nghiệp Đại học An Giang. Con trai út của ông Lê Văn Tám cũng đang là sinh viên khoa cơ khí Trường đại học Cần Thơ.

Trên 20 học sinh, sinh viên là con cháu trong những gia đình có cha mẹ mồ côi đều học giỏi và đỗ đạt ở Ba Chúc. Lớp con cháu của “thế hệ mồ côi” xưa bây giờ đã bớt vất vả so với 31 năm trước. Bà Vĩ tâm tình: “Chúng tôi phải lao khổ để có ngày hôm nay.

Chỉ mong con em mình ăn học thành tài giúp ích cho xã hội và gia đình là mãn nguyện rồi”.

Động lực để những đứa trẻ ngày hôm nay thành công có lẽ chính nhờ vào nghị lực vươn lên của cha mẹ, những người bất ngờ rơi vào thảm cảnh mồ côi bởi chiến tranh và sự ác độc của con người.



Ông Bùi Văn Cừu - Ảnh: Q.Vinh
Ông Tư Cừu và “sổ hộ nghèo của ông trời”

Ông Bùi Văn Cừu, 83 tuổi, ở khóm An Định A, thị trấn Ba Chúc, có vợ và năm con đã bị lính việt gian Cộng Sản giả lính Pol Pot giết chết tại chùa Phi Lai. Ông trúng vé số độc đắc đến năm lần. Có người gọi ông là triệu phú khu nhà mồ nhưng ông nói mình vẫn chỉ là người cùng khổ với bà con.

Ông dùng tiền trúng xổ số bao xe cho cả xóm đi du lịch và động viên mọi người làm ăn từ đồng vốn mà ông gọi là “sổ hộ nghèo của ông trời” ban tặng.

Ông nói: “Tui trúng số coi như người lận đận được hưởng. Có bao nhiêu tui tìm đến người nghèo khó khăn giúp đỡ họ, tui cho mượn ai trả cũng được, không trả tui cũng không phiền trách. Bà con đã quá khổ đau rồi!”.

Chuyện đi du lịch có người nói ông nghèo mà chơi sang, có người ngại sợ ông tốn tiền nhưng ông nói đi cho ông vui lòng, đi để biết đất nước đẹp cỡ nào. 17 triệu đồng tiền thuê xe và chi phí ăn ở cho chuyến đi Sài Gòn, Đà Lạt, Nha Trang. Số tiền còn lại được ông chia sẻ cho chùa và bà con nghèo cần vốn làm ăn.

Ông Nguyễn Văn Ngọc nhà nghèo lại bệnh gan khó trị, đã được ông Tư tặng nửa chỉ vàng. Anh Bảy sửa xe, chị Nhung bán bánh bèo, bà Sáu cô đơn làm nghề đan đệm bàng... rồi trẻ con trong xóm thiếu tiền mua sách vở đều được ông Tư tiếp sức cho tiền như một nguồn động viên lớn. Lúc trúng số ông Tư còn mua cả đồ chơi, vật dụng, mua liền mấy trái bóng để lũ trẻ đá bóng vui đùa mỗi chiều.

Ai nghèo khó ông Tư cho mượn từ vài trăm ngàn đến 7-8 triệu đồng. Gần 20 năm nay nhà ông vẫn như xưa. Ông muốn lưu giữ ký ức bằng những cảnh vật dù là sơ sài của gia đình.

Chòm xóm ai có món ngon vật lạ đều dành phần ưu tiên cho ông. Có hàng chục người nghèo đang làm ăn khá lên từ nguồn tiền trúng số của ông, họ nói với chúng tôi rồi đây cũng sẽ noi theo ông Tư Cừu tiếp tục giúp người nghèo khó ở xóm nhà mồ...

QUANG VINH

____________________

Khởi đăng: Cổ tích đồng bưng

Có một người đàn ông bưng biền lúc nào cũng khăm khẳm mùi dầu tràm, đi nước ngoài với bàn tay cáu bẩn và bàn chân nứt nẻ sình lầy... Ông không chỉ mở phòng khám bệnh, xây trường học miễn phí, đào kênh khẩn hoang, mà còn góp phần thay đổi cả một ý thức hệ bần cố nông bao đời cam chịu khó nghèo... Câu chuyện về một anh hùng được dân quê gọi là “anh Ba Bé”.


VC thảm sát hơn 3.157 dân làng Ba Chúc !

Chuyên mục: VC thảm sát hơn 3.157 dân làng Ba Chúc !
Tags: VC thảm sát hơn 3.157 dân làng Ba Chúc !


VC thảm sát hơn 3.157 dân làng Ba Chúc !
VC tàn sát dân lành Việt nam ở gần biên giới Việt Miên xong đổ tội cho Khờ Me đỏ nhưng bị bại lộ ! Hơn 3.157 đồng bào đã bị ngụy quyền VC giết chết thảm thương ở làng Ba Chúc !

TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, AN GIANG THÁNG 4/1978

NGUYỄN VĨNH LONG HỒ



Hình chụp từ vệ tinh: làng Ba Chúc – Huyện Tịnh Biên – tỉnh Châu Đốc nằm sát biên giới Cam Bốt.
Làng Ba Chúc và Huyện Tịnh Biên được khoanh màu đỏ.
Biên giới Việt Nam – Cam Bốt là gạch màu vàng.

PHẦN I

THÁNG 4 NĂM 2009. Kỷ niệm đúng 31 năm, ngày dân làng BA CHÚC, tỉnh An Giang bị thảm sát vào tháng 4 năm 1978. Hơn 3.157 đồng bào ruột thịt bị tàn sát dã man đã chìm vào trong quên lãng. Tôi xin mở lại hồ sơ tố cáo tội ác bọn CSVN đã nhúng tay trong biến cố ghê tởm nầy, để đồng bào trong và ngoài nước nhận định. Xin đa tạ quý vị!

Vào cuối tháng 5 năm 1999. Tôi có nhận được lá thư đề ngày 21 tháng 5 năm 1999 của ông TRẦN H. (xin dấu tên) – cựu sĩ quan QĐVNCH – sinh quán tại xã BA CHÚC, tố cáo tội ác bọn CSVN giết người tập thể tại làng BA CHÚC, tỉnh AN GIANG. Từ đó, tôi phối kiểm các tài liệu trong và ngoài nước, tình hình biên giới phía Tây Nam 1978 – 1979 và các dữ kiện do những nhân chứng còn sống tại Hoa Kỳ cung cấp. Và tôi xin mở lại hồ sơ vụ án, đưa “sự cố” nầy ra trước ánh sáng để CĐVNHN và đồng bào trong nước biết thêm về tội ác tày trời, giết người tập thể còn dã man, tàn bạo và khủng khiếp hơn cả TẾT MẬU THÂN 1968. Nạn nhân gồm cả đàn bà, trẻ con Việt Nam lẫn Cam Bốt bị thảm sát tại các CHÙA, TRƯỜNG HỌC tại làng Ba Chúc cách biên giới VIỆT – MIÊN khoảng 7 cây số và chỉ trong vòng một đêm 18 tháng 4 năm 1978. Cái dã man và vô nhân đạo của bọn Lãnh đạo Đảng CSVN đã đem những bộ hài cốt của những nạn nhân do chúng thảm sát, đem trưng bày trong các hộp kính để gây ảo giác căm thù giữa hai dân tộc VIỆT NAM – KAMPUCHEA.

VỊ TRÍ NHÀ MỒ BA CHÚC



Nhà mồ Ba Chúc



Chùa Phi Lai



Chùa Tam Bửu

Căn cứ vào hình ảnh và sự mô tả trên mạng saigonnet ngày 4/ 21 /2004: Nhà mồ Ba Chúc, Chùa Phi Lai và Chùa Tam Bửu là những di tích được công nhận là di tích vào năm 1980 là một địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng việt gian Cộng Sản giả lính Pôn – Pốt qua 11 ngày (từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978) đã xâm lược Miền Nam và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc. Nhà mồ Ba Chúc có hình lục giác, mỗi trụ cột đỡ mái nhà được kiến trúc hình tượng như bàn tay đẫm máu, đang vươn thẳng lên. Bên trong nhà mồ là một khung hộp bằng kính tám cạnh, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt được phân thành nhiều loại khác nhau như: độ tuổi, giới tính… Nhà mồ được xây dựng giữa hai ngôi chùa Phi Lai và Tam Bửu, đây là hai ngôi chùa do các tín đồ của đạo Hiếu Nghĩa dựng lên và cũng chính nơi đây đã trở thành nơi chứng kiến những tội ác của chúng và những chứng tích đó vẫn còn in dấu cho đến ngày nay.

Sau khi phối kiểm và phân tách “Câu chuyện làng BA CHÚC ở biên giới MIÊN – VIỆT” của ông HOÀNG QUÝ (mạng lenduong. net ngày 5/02/2004), chi tiết về cụm nhà mồ BA CHÚC kể trên và thơ tố cáo của ông TRẦN H. Một điểm trùng hợp rất quan trọng là ông TRẦN H, và ông HOÀNG QUÝ đều xác nhận là tất cả nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC .

Ông TRẦN H. viết:

“… CSVN đưa sư đoàn 30 CSBV án ngữ dầy đặc dọc biên giới Miên Việt tỉnh Châu Đốc cũ. Chiều đến thì bọn cán bộ và bộ đội Cộng sản bắt dân vào CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC ngủ để chúng bảo vệ. Nửa đêm, dân ngủ mê, chúng giả bộ đội Miên tấn công vào chùa và trường học bằng lựu đạn, cổng ngoài khóa chặt. Sau đó, chúng nổi lửa đốt sạch làm hằng ngàn dân vô tội phải chết oan uổng dưới bàn tay vô thần của CSVN. Nhứt là tại làng Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, có trên 3.000 người bị chúng giết tập thể. Nay chúng cho xây một ngôi nhà kiếng để chứa đống xương vô định chất cao bằng đầu…(ngưng trích)

Ông HOÀNG QUÝ viết:

“…Thời cuộc đã biến chuyển khôn lường, sau đó chính 2 lực lượng anh em nầy quay mũi súng vào nhau, lực lượng vũ trang của Khờ me đỏ đã tấn công vào làng Ba Chúc, cách biên giới khoảng 4 dậm, vào ngày 18 / 4/ 1978… Tổng cộng có 3.157cả người Việt Nam lẫn Cam bốt bị thảm sát tại các CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC tại Việt Nam. Những cuộc tấn công khác tương tự như trường hợp nầy là những lý do mà CSVN nêu lên để xua quân tiến chiếm Cam Bốt vào cuối năm đó… (ngưng trích).

Trong bài viết “WHEN THE KHMER ROUGE CAME IN VIETNAM” của James Pringle đăng trong International Herald Tribune, số ra ngày Jan 7, 2004 có thuật lại lời của chứng nhân, bà Hà Thị Nga nói:

“Trong một ngôi chùa, tôi thấy 40 nạn nhân sợ hãi trốn dưới bàn thờ, trước khi bị giết bằng lựu đạn.” (In a temple, I saw where 40 terrified victims hid under the alter before being killed by grenades).

Bà Hà Thị Nga có phải là một người được chánh quyền dàn dựng đưa ra trả lời phóng viên James Pringgle? Tại sao bà biết con số chính xác là 40 người trốn dưới bàn thờ? Trừ phi họ đứng xếp hàng cho bà điểm danh trước khi chun dưới bàn thờ. Tôi là người sống ở miền Tây, thăm viếng nhiều chừa chiền, không một ngôi chùa nào có một cái bàn thờ khổng lồ có sức chứa 40 người trốn dưới đó. Tập trung trốn dưới bàn thờ, chẳng khác nào cho bọn Khmer Đỏ biết: “Lạy ông con trốn ở bụi nầy!”

Một điểm trùng hợp rất quan trọng là cả hai ông Trần H. và Hoàng Quý và chứng nhân đều xác nhận là tất cả các nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA & TRƯỜNG HỌC. Và thời gian xảy ra vào ngày 18/ 4/ 1978 và không thấy ông Hoàng Quý nói cuộc thảm sát kéo dài đến ngày nào, giống như chi tiết về cụm nhà mồ Ba Chúc kéo dài đến 11 ngày từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978. Tìm hiểu những nguyên chính đưa đến việc bọn CSVN đã tắm máu dân làng Ba Chúc như sau:

TÌNH HÌNH NỘI BỘ VIỆT NAM – KAMPUCHEA SAU 1975

Theo sự tiết lộ của Hoàng Tùng – Tổng biên tập báo Nhân Dân – và là Ủy viên BCT/TƯ Đảng CSVN: Bắc Bộ Phủ đã có ý đồ chiếm đóng Cam Bốt từ năm 1970 – 1972. Cuối năm 1976, Đại Hội IV Đảng Lao Động đổi thành Đảng CSVN dưới sự giám sát của lý thuyết gia MIKHAI A. SUSLOV – Trưởng phái đoàn Sô Viết – thì hầu hết các Ủy viên Bộ Chính Trị đã nối đuôi Lê Duẩn thần phục Mạc Tư Khoa. Đại hội IV của Đảng CSVN chấp nhận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thành lập LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG bằng cách thuyết phục và nếu cần dùng áp lực quân sự để buộc Cam Bốt và Lào gia nhập. Sau Đại Hội IV, Lê Duẩn và BCT/TƯ/Đảng CSVN nhận định rằng: Việt Nam nằm trong quỹ đạo của Liên Sô là đối lập với Trung Quốc và sự liên kết giữa Trung Quốc và Cam Bốt sẽ áp lực quân sự nặng nề tại vùng biên giới phía Tây Nam.

CUỘC XUNG ĐỘT VŨ TRANG VÙNG BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM

KAMPUCHEA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ NHẤT NĂM 1977

Tháng 3 năm 1977: Ieng Sary – Ngoại trưởng Khmer Đỏ – sang Bắc Kinh nối lại quan hệ thân thiết cũ. Trong buổi tiếp tân có Lý Tiên Niệm – Phó Thủ Tướng – và Tướng Vương Thăng Long – Tổng Tham mưu phó QĐNDTQ – khoản đãi phái đoàn Kampuchea cho thấy sự hợp gắn bó giữa hai nước.

Tháng 4 năm 1977: Trong buổi tiếp tân tại Tòa Đại Sứ Kampuchea, Ngoại trưởng Hoàng Hoa công khai tuyên bố:

“Nước Kampuchea đang bị kẻ thù phá hoại và Trung Quốc sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những hành động can thiệp và gây hấn của các lân bang”.

Nhận được sự hậu thuẫn của Trung Quốc. Hai tuần sau, đúng vào ngày Việt Nam tưng bừng kỷ niệm năm thứ hai “Mùa Xuân Đại Thắng 1975”. Quân đội Kampuchea bất thần mở cuộc tấn công qui mô vào những làng xã và những thị trấn dọc biên giới tỉnh An Giang, và sau đó rút về bên kia bên giới.

KAMPUCHEA TẤN CÔNG LẦN THỨ HAI VÀO TÂY NINH

Ngày 27 tháng 9 năm 1977: Tên đồ tể Pôn – Pốt lên đài phát thanh đọc diễn văn dài 5 tiếng đồng hồ, chính thức xác nhận vai trò lãnh đạo của mình và tổ chức ANGKA là Đảng Cộng Sản Kampuchea. Một ngày sau khi ra mắt. Pôn – Pốt lên đường đi Bắc Kinh và Bình Nhưỡng. Lần đầu tiên đi công du với tư cách là Chủ tịch Đảng và Thủ Tướng. Pôn – Pốt được đón tiếp trọng thể. Cờ và biểu ngữ giăng đầy Thiên An Môn.

Ba ngày trước đó, để chứng tỏ quyết tâm chống Việt Nam của mình đối với Trung Quốc. Pôn – Pốt ra lệnh cho Quân Khu Đông tấn công vào lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Tây Ninh. Việt Nam tự hạn chế, không cho quân đội vượt biên phản công, đồng thời cách chức Tướng Tư lệnh quá khích TRẦN VĂN TRÀ và Tướng LÊ ĐỨC ANH thay thế. Trong bài viết The continuing conflict in Southeast Asia của David Miller đăng trong cuốn THE VIETNAM WAR ghi nhận:

“Nhiều đồng bào địa phương đã chạy thoát, nhưng Hà Nội quả quyết người Kampuchea thảm sát 2.000 thường dân” (Many local residents fled, but an official Hanoi communique alleged that kampucheans had massacred some 2,000 civilians).

Sau đó, một mặt Đảng CSVN gởi điện văn chúc mừng lễ ra mắt Đảng CS Kampuchea, một mặt bí mật gởi Phan Hiền sang Bắc Kinh nhờ Trung Quốc dàn xếp cho gặp phái đoàn Kampuchea. Cuộc tiếp xúc không đi đến đâu. BCT/ ĐẢNG CS Trung Quốc đều nhất trí ủng hộ Khmer Đỏ. Trung Quốc bắt đầu chở vũ khí và chiến cụ ồ ạt tới cảng Komphong Som để trang bị tận răng cho quân đội kampuchea. CSVN buộc phải đứng hẳn về phía Liên Sô tìm cách phản công chống lại Khmer Đỏ quyết liệt hơn. Tập đoàn Lãnh đạo CSVN đã sai lầm một chiến lược quan trọng: “Nước xa không cứu được lửa gần”.

QUÂN ĐỘI VNCS PHẢN CÔNG KAMPUCHEA CUỐI NĂM 1977

Vào những ngày cuối năm 1977. Lực lượng vũ trang QĐND/VNCS mở những trận tấn công thăm dò vào sâu trong lãnh thổ Kampuchea. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt và công khai hóa tranh chấp lãnh thổ và hai bên điều động thêm lực lượng vũ trang tăng cường hệ thống phòng thủ dọc biên giới. Nhưng, phía Việt Nam bị Quốc tế tố cáo và lên án xâm lăng Kampuchea, quân đội viễn chinh VNCS buộc phải rút về nước vào ngày 6 tháng 1 năm 1978.

KAMPUCHEA TẤN CÔNG LẦN THỨ 3 VÀO ĐẦU NĂM 1978

Đầu tháng giêng 1978: Tại vùng biên giới cực Nam. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn 2 và 210 của Quân Khu Tây Kampuchea đã tấn công và chiếm đóng các xã Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình và các huyện Hồng Ngự và Hà Tiên thuộc lãnh thổ Quân Khu IX Việt Nam. Và đây là cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam lần cuối cùng, vì họ sẽ chẳng còn cơ hội nào vượt biên tấn công vào Việt Nam nữa. Tướng TRẦN NGHIÊM nguyên là Tư Lệnh Phó của LÊ ĐỨC ANH. Sau khi Lê Đức Anh thay Trần văn Trà. Tướng Trần Nghiêm được đề bạt lên làm Tư lệnh Quân Khu IX, chịu trách nhiệm điều động 3 sư đoàn chính quy cơ hữu, gồm các Sư đoàn 4, 8 và 330 cùng với 2 trung đoàn chủ lực cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp. Sư đoàn 341 do tướng Vũ Cao làm Tư Lệnh được điều từ Quân Khu VII đến tăng phái cho Quân Khu IX cùng với sự yểm trợ của không quân, pháo binh, thiết giáp… với lực lượng áp đảo và hùng hậu như vậy, mà phải mất 2 tháng phản công mới đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra khỏi biên giới và tái chiếm lại lãnh thổ đã mất.

Đầu tháng 3 năm 1978: Tình hình biên giới phía Tây Nam hoàn toàn yên tĩnh. Sư đoàn 341 được trả về Quân khu VII sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Tướng Trần Nghiêm tái phối trí 3 sư đoàn 4, 8 và 330 cùng hai trung đoàn cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp vào nhiệm vụ phòng thủ diện địa. Riêng sư đoàn 330 được chỉ định thành lập tuyến phòng thủ an ninh lãnh thổ huyện TRI TÔN.

KAMPUCHEA KHI SƯ ĐOÀN 2 VÀ 210 RÚT VỀ BÊN BIÊN GIỚI

Bắt đầu từ tháng năm 1978 và những tháng sau đó. Cuộc thanh trừng nội bộ ở Quân Khu Đông càng ngày càng trở nên gay gắt và lên đến cao điểm vào ngày 24 tháng 5 năm 1978, lực lượng của KE PAULK – Bí thư Khu ủy Trung tâm của Khmer Đỏ – thuộc Quân khu Trung Ương kéo đến SOUNG, bao vây tổng hành dinh của Quân khu Đông, bắt giam tất cả sĩ quan chỉ huy và nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra giữa đôi bên. Sau cuộc thanh trừng, sư đoàn 4 coi như bị xóa sổ, các sư đoàn 3, 5, 280 còn lại bị suy yếu hẳn.

BCT/TƯ Đảng CSVN không bỏ lở cơ hội ngàn vàng, triệt để khai thác nhược điểm của địch là sự xâu xé nội bộ và mâu thuẫn hàng ngũ của Khmer Đỏ theo đúng sách lược của Lenine: “Phải chộp ngay cơ hội chia rẽ của địch”, bằng cách ráo riết chuẩn bị chuẩn bị “tâm lý quần chúng” và “dư luận Quốc tế” . Rõ ràng, bọn Đảng CSVN đã đạo diễn tấn thảm kịch cực kỳ dã man, tàn bạo và ghê tởm: tắm máu 3.157 đồng bào vô tội, đa số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trong đêm 18 /4/ 1978 rồi đổ tội cho bọn đồ tể Khmer Đỏ gây ra. Độc chiêu “ném đá dấu tay”, rồi dở trò “mèo khóc chuột” của bọn CSVN đã thành công trong âm mưu tạo ra kẻ thù Khmer Đỏ bằng xương bằng thịt để kích động lòng căm thù chủng tộc Việt Nam – Kampuchea, rồi triệt để khai thác sức mạnh của lòng căm thù của quần chúng vào mục tiêu chánh trị và quân sự để chuẩn bị xâm lăng Kampuchea.

Tất cả bộ máy chiến tranh tâm lý của bọn CSVN được động viên vào việc tuyên truyền rầm rộ. Những cuộc biểu tình, hội thảo diễn ra khắp nơi, các đài phát thanh, phát hình trong nước mở tối đa công xuất lên án bọn diệt chủng Pôn Pốt đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc để tranh thủ dư luận Quốc tế, có chứng cớ hẳn hòi, chớ không phải tố cáo vu vơ như lần quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ tỉnh Tây Ninh thảm sát 2.000 thường dân. Quân đội CSVN xua quân tấn công Kampuchea chỉ vì lý do tự vệ chánh đáng, chớ không phải xâm lăng Kampuchea như đã từng bị lên án trước đó.

NGÀY 15/ 6/ 1978, chiến dịch tấn công Kampuchea mở màn. Các sư đoàn chính quy 7, 9 và 341 cùng với các đơn vị yểm trợ hùng hậu tràn qua biên giới Việt – Miên, chiếm đóng một phần lãnh thổ sâu trong nội địa Kampuchea từ 10 đến 40 km, trong đó có quận Prasaut. Lúc đó nhằm mùa mưa. Kampuchea tăng cường thêm nhiều sư đoàn từ trong nội địa ra biên giới để phản công. Từ Prasaut, quân xâm lược CSVN phải lùi về Chipru…

DẤU ĐẦU LÒI ĐUÔI

6 ĐIỂM CHỨNG MINH TỘI ÁC CỦA CSVN TRƯỚC DƯ LUẬN QUỐC TẾ VÀ ĐỒNG BÀO TRONG & NGOÀI NƯỚC
ĐIỂM MỘT: Không thấy chánh quyền địa phương đề cập đến con số thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản của nhân dân sau 3 lần lực lượng Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là 2 tháng đầu năm 1978 là thời gian quần thảo dữ dội giữa 4 sư đoàn + 2 trung đoàn cơ động CSVN để đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra hỏi biên giới. Điều đó đã chứng minh rằng: Đồng bào MNVN đã tích lũy quá nhiều kinh nghiệm “chạy giặc”. Giặc Tây đi bố, giặc Việt Minh CS giết người đoạt của, giặc Miên nổi dậy “cáp duồn”… nên phản ứng của họ vô cùng bén nhạy. Mỗi khi có biến động là nhà nhà báo động bằng đủ mọi phương tiện như gõ mõ, thùng thiếc, gióng trống, khua chiên, nồi niêu, xoong chảo… để kịp thời bồng bế con cái chạy giặc. Họ không bao giờ chịu nằm yên trong nhà, ngoan ngoãn chờ bọn Khmer Đỏ đến lùa họ đi. Và một điều chắc chắn là khi họ nhận diện binh lính của Khmer Đỏ, họ sẽ chạy bung ra, chạy bán sống bán chết giống như hồi Tết MẬU THÂN 1968, dân MNVN chạy giặc Việt Cộng, dễ dầu gì bọn Khmer Đỏ có đủ lực lượng tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC một cách dễ dàng để tàn sát tập thể. Hơn nữa, địa thế làng Ba Chúc dưới chân núi TƯỢNG và bên kia là núi DÀI, một địa thế lý tưởng cho đồng bào lẫn trốn dễ dàng.

ĐIỂM HAI: Những vị cao niên nào sống ở Miền Tây Nam Bộ thuộc các tỉnh Châu Đốc, Vĩnh Long, Trà vinh, Sóc Trăng chắc chưa quên những cuộc nổi dậy bất thần đầy chết chóc của những đồng bào Việt gốc Miên sống trong các sóc vùng sâu. Và danh từ “Miên dậy” là tiếng báo động khẩn cấp đồng bào Việt gọi nhau chạy lánh nạn. Những người Miên từ trong các sóc đồng loạt ùa ra, tay cầm phảng, cuốc xẻng, rựa… tay kia cầm chai rượu “phất xạ” (uống rượu), họ ào ạt xông vào các xóm làng của đồng bào ta như cơn gió lốc, rượt đuổi dân làng chạy tán loạn. Họ vừa chạy vừa thét : “Dơ! Cáp duồn! Bòn ơi!…” (Nào! Giết tụi Việt! Bây ơi!…” Trong cơn say rượu, say máu, họ gặp đàn bà chém theo đàn bà, trẻ con đâm theo trẻ con… gặp đâu giết đó. Bọn diệt chủng Khmer Đỏ cũng thế! Một khi tràn qua biên giới Việt Nam, họ đâu có lòng nhân đạo đến độ phải tập trung đồng bào ta vào các chùa chiền để đọc kinh cầu nguyện trước khi hành quyết, hoặc dồn trẻ con vào các trường học vì sợ trẻ chết xuống âm phủ thành những con ma mù chữ?

ĐIỂM BA: Nếu như muốn cưỡng bách trên 3, 4 ngàn người sống rải rác trong làng Ba Chúc với một địa thế hiểm trở như thế, cách biên giới Việt – Miên khoảng 7 km và cách con kinh Vĩnh Tế khoảng 5 km. Chúng tôi nghĩ, bọn diệt chủng Pôn Pốt phải huy động bao nhiêu sư đoàn Khmer Đỏ mới làm nổi việc đó? Và làm thế nào những sư đoàn nầy lọt qua tuyến phòng thủ biên giới Tây Nam dầy đặc của 3 sư đoàn chính quy 4, 8 và 330 của QĐND và 2 trung đoàn cơ động tỉnh với lực lượng yểm trợ hùng hậu gồm: thiết giáp, pháo binh và không quân đóng tại căn cứ Trà Nóc? Và hơn thế nữa, bọn Khmer Đỏ làm thế nào kéo dài cuộc thảm sát dân làng Ba Chúc trong suốt 11 ngày đêm mà không có cuộc chạm súng nào với các đơn vị chủ lực CSVN phòng thủ biên giới kể trên, trừ phi các đơn vị nầy nhận được lệnh của BCT/TƯ/ Đảng “án binh bất động”, để mặc cho bọn Khmer Đỏ mặc sức giết đồng bào ta? Không có tổn thất về nhân mạng được ghi nhận cho cả hai phía Khmer Đỏ và bộ đội biên phòng CS (có đánh đấm gì đâu mà có tổn thất chứ!), chỉ có trên 3.000 đồng bào bị thảm sát mà thôi. Tưởng cũng xin nhắc lại: Trước 30/4/1975, Quân Đoàn IV và Quân khu 4 chỉ có 3 sư đoàn chủ lực 7, 9 và 21 / BB và nếu như 3 sư đoàn nầy được phối trí, tập trung vào nhiệm vụ phòng thủ biên giới phía Tây Nam thì chưa chắc một con chuột chui qua lọt, đừng nói chi một đơn vị nhỏ của quân xâm lược CSBV.

ĐIỂM BỐN: Thời điểm bọn Khmer Đỏ thảm sát dân làng Ba Chúc từ 18 /4 /1978 đến 29 /4 /1978 lại càng không hợp lý. Vì trong thời gian đó, ở bên kia biên giới, cuộc thanh trừng nội bộ đang xảy ra gay gắt và quyết liệt ở Quân Khu Đông sắp lên đến cao điểm. Làm sao Pôn Pốt có thể điều động lực lượng Khmer Đỏ vượt biên tấn công Việt Nam?

ĐIỂM NĂM: Người nông dân Việt Nam nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng, họ chỉ di dân vào các điểm tập trung dưới sự bảo vệ an ninh của quân đội VNCH. Hệ thống “Ấp chiến lược” được thiết lập trong thời chiến tranh là một thí dụ cụ thể. Điều nầy phải là cán bộ địa phương và bộ đội CSVN mới có thể tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC đã chỉ định sẵn theo kế hoạch để ra tay tàn sát đồng loạt. Và sư đoàn 30 (tên gọi tắt của đồng bào địa phương) chính là sư đoàn 330 chỉ định cuộc giết người tập thể nầy vào đêm 18 /4 /1978. Vì SĐ 330 được thành lập tại MNVN trước khi tập kết ra Bắc do Tướng Đồng văn Cống làm Tư lệnh thì dân làng Ba Chúc mới có lòng tin đi theo chúng vào các chùa và trường học để được chúng bảo vệ an ninh. Sau đó, chúng khóa chặt cửa lại. Chờ khi đêm đến, bộ đội CSVN đội lốt quân Khmer Đỏ kéo đến giết sạch, đốt sạch đúng như lời tố cáo của ông Trần H. và đó sự thật không thể chối cãi. Hiện nay, một vài nhân chứng còn sống sót như bà Trần thị C, ông Nguyễn văn Ch…và một nhân chứng quan trọng là một thầy giáo cấp 2 ở kinh Vĩnh Tế họ Trần (xin dấu tên) đã dám nói lên sự thật với đồng bào nên bị sa thải khỏi nhiệm sở và bị tên Giám Đốc Công An tỉnh An Giang – bí danh Sáu Nhỏ – bắt giam 2 năm để cảnh cáo.

ĐIỂM SÁU: Tại sao bọn CSVN mở cuộc thảm sát tập thể dân làng Ba Chúc, cách biên giới đến 7 km? Trước năm 1975, có ai đặt chân lần đầu đến Ba Chúc dưới chân làng Ba Chúc dưới chân núi Tượng và bên kia núi Dài, đều ngạc nhiên trước hết là nhìn đâu đâu cũng thấy chùa và đa số chùa nào cũng giữ theo truyền thống là tường xây bằng gạch nhưng mái lợp lá. Riêng tại làng Ba Chúc có khoảng 15.000 tín đồ Bửu Sơn kỳ Hương thờ vị Giáo Tổ Đức Phật Thầy Tây An, lấy giáo lý PGHH do Đức Huỳnh Giáo Chủ đề xướng: Tứ Ân, Bát Nhẫn và tám Điều Răn của Đức Thầy để tu thân. Điều nầy chúng minh dã tâm của bọn CSVN vừa tiêu diệt tín đồ PGHH, vừa đốt luôn các chùa chiền, nơi tín đồ PGHH thờ phượng đấng thiêng liêng, rồi đổ tội diệt chủng cho bọn Khmer Đỏ đã biến mất về phía bên kia biên giới, thế là xong! Những việc giết người tập thể là sách lược của bọn CSVN, có tính toán tinh vi và được thực hiện từng bước theo kế hoạch được dàn dựng hẳn hoi. Đây là độc chiêu “nhất tiển hạ song điêu” của bọn CSVN.[/lis]

PHẦN II

Nội dung và chi tiết PHẦN I kể trên, tôi đã đúc kết lại thành một bài viết với chủ đề: “Mở lại hồ sơ CSVN thảm sát 3,157 đồng bào làng Ba Chúc, tỉnh An Giang đêm 18/ 4/ 1978” đã được đưa lên mạng Người Việt Online ngày 3 tháng 5 năm 2004 lúc 2:59 PM.

Sau khi bài viết nầy đã được đưa lên mạng thì đúng 7 ngày sau, ông LỤC TÙNG từ trong nước, viết một phóng sự – ghi chép với tựa đề “BA CHÚC NGÀY 16 THÁNG 3…” đưa lên báo Lao Động số 131, ngày 10 tháng 5 năm 2004. Xin tóm lược vài điểm chính của bài báo nầy:[list]

Nơi đây, đúng 3 năm sau ngày thống nhất đất nước, bè lũ diệt chủng Pôn – Pốt đã xua quân vượt biên giết 3.574 thường dân bằng những hình thức dã man, như: Người lớn, chúng dùng búa đập đầu, dao cắt cổ; trẻ em thì nắm hai chân xé ra, hoặc đập đầu vào gốc cây, nếu chưa chết thì quăng lên cao, sau đó vươn lưỡi lê lên hứng. Riêng với phụ nữ, trước khi dùng lưỡi lê xẻo vú, hay thọc cây tầm vông, cọc trâm bầu vào cửa mình cho chết, chúng lột quần áo ra rồi thay nhau hãm hiếp tập thể”. Để tưởng nhớ những người dân vô tội, hằng năm vào ngày 16 tháng 3 A.L, chính quyền và nhân dân nơi đây tổ chức ngày giỗ hội. Giỗ hội lần thứ 26 năm nay nhằm ngày 4. 5. Tôi (Lục Tùng) lật sổ tay, đoạn ghi lại số liệu của ỦY BAN TRUNG ƯƠNG ĐIỀU TRA TỘI ÁC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC trong 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4 /1978. bè lũ Pôn – Pốt đã sát hại tổng cộng 3.574 thường dân.

Trên đường dẫn chúng tôi (Lục Tùng) đến nhà bà Hà thị Nga, một trong số 3 người sống sót trong tầm diệt chủng, ông Trần Văn Nhi – nguyên Phó Chủ Tịch thị trấn Ba Chúc – không nén được xúc động nói:

“Tôi đã đi qua hai cuộc chiến tranh, đánh Pháp, đuổi Mỹ, nhưng chưa bao giờ thấy cảnh người ta dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa như lần ấy…”

Theo lời ông Nhi, sau nạn diệt chủng Ba Chúc giống như một như một bãi đất hoang tàn, toàn xã có 3.574 người bị sát hại, trong đó có 100 hộ bị giết sạch…

Ông Lục Tùng mô tả ngày giỗ hội như sau:

“Hôm nay ngày giỗ hội 16 tháng 3…”, vị chánh bái vừa cất giọng, cả không gian tỉnh lặng đột nhiên vỡ tung bởi tiếng nấc nghẹn ngào xen lẫn những tấm thân ngã quỵ…”(ngưng trích). Nhưng, tấm hình ghi lại một góc nhà mồ ngày giỗ hội thật tương phản, chỉ đếm được có 7 người đứng bên cạnh khung hộp kính hình bát giác, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt của nạn nhân.

LỜI BÀN:

Theo lời kể của ông Lục Tùng thì tội ác thảm sát đồng bào ta tại xã Ba Chúc của bọn Khmer Đỏ là tội ác “trời không dung đất không tha” nên Đảng CSVN phải cho xây cụm nhà mồ Ba Chúc là địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn Pốt cũng đúng thôi! Nhưng vẫn còn kém xa, nếu đem so sánh với tội ác vô cùng dã man của quân xâm lược Trung Cộng thảm sát đồng bào ta tại xã Đề Thám là một xã ngoại ô của thị xã Cao Bằng, nơi giáp với tỉnh Quảng Tây, khu vực có nghĩa trang “liệt sĩ Long Châu” chôn lính Trung Cộng đã tử trận tại Việt Nam. Thị xã Cao Bằng là một trong những khu vực bị quân xâm lược Trung Cộng tàn phá nặng nề nhất. Tất cả bệnh viện, trường học, chùa chiền, đền thờ đều bị phá hủy tan hoang thành bình địa trước khi rút quân khỏi Việt Nam trong cuộc chiến tranh giới biên giới vào tháng 2 năm 1979. Đây cũng là nơi có nhiều thường dân bị quân xâm lược Trung Cộng tàn sát nhiều nhất. Họ chết vì đạn pháo, bị chặt đầu, mổ bụng, phụ nữ bị hãm hiếp tập thể cho đến chết, trẻ con bị ném xuống giếng… Nơi nầy, thay vì BCT/TƯ/ Đảng CSVN cho xây cụm nhà mồ Đề Thám để đánh dấu tội ác man rợ của quân xâm lược Trung Cộng mới phải. Ngược lại, bọn CS Hà Nội lại cho in sách ca tụng quân xâm lược Trung Cộng giết hại đồng bào và tàn phá 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Và mới đây, ai đó đã đặt một vòng hoa tại nghĩa trang liệt sĩ Long Châu, bốc mùi thúi hoắc: “ĐẢNG ỦY, HĐND, UBND, UBMTTQ XÃ ĐỀ THÁM ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN CÁC LIỆT SĨ TRUNG QUỐC.”

YẾU TỐ THỜI GIAN “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”

Theo ông Lục Tùng, khu vực nhà mồ Ba Chúc được BỘ VĂN HÓA XẾP HẠNG CẤP QUỐC GIA, con số nạn nhân là 3.574 người và thời gian bắt đầu cuộc thảm sát kéo dài 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4 /1978 do Ủy Ban Trưng ương Điều tra Tội ác Chiến tranh Xâm lược ghi nhận. Nhưng, tại sao bọn lãnh đạo CSVN lại ghi nhận mốc thời gian từ 18 đến 29/ 4/ 1978 (sai biệt trước và sau 4 ngày) để làm gì?

Một câu hỏi được đặt ra: Thời gian chính xác xảy ra cuộc thảm sát 3.157 (hay 3.574) đồng bào vô tội làng Ba Chúc, tỉnh An Giang vào ngày 14 hay ngày 18 tháng 4 năm 1978? Chánh quyền CSVN phải biết rõ điều nầy hơn ai hết!

Cần phải nói rõ thêm là khoảng thời gian từ 14/4 đến 18/4 D.L đều rơi vào ngày LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY CỦA DÂN TỘC KAMPUCHEA. Chắc chắn khoảng thời gian đó, tên đồ tể Pôn – Pốt và quân Khmer Đỏ không bao giờ khai sát giới, tàn sát 3.574 dân làng Ba Chúc trong các chùa chiềng.

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY

Là lễ mừng năm mới, lễ hội trọng đại và thiêng liêng nhất trong năm của người Kampuchea (tương tự như Tết Nguyên Đán của người VN). Lễ hội chính thức bắt đầu từ 1 đến 3 tháng Chét theo Phật Lịch, rơi vào ngày 14/4 Dương lịch (năm nhuận thì bắt đầu vào ngày 13/4). Trong 3 ngày lễ hội (năm nhuận là 4 ngày) mang đậm nét văn hóa Phật Giáo Tiểu Thừa, từ thời gian gắn liền với Phật Lịch, địa điểm tổ chức tại các chùa và nghi thức tụng kinh cầu phước, dâng cơm cho sư sãi và chủ tế hành lễ là các vị sư sãi, nên ngoài ý nghĩa chúc mừng năm mới, còn là làm phước của đồng bào Kampuchea.

Lễ hội còn có ý nghĩa tống tiễn mùa nắng, bước sang thời kỳ có mưa để kịp thời vụ. Bà con tiễn đưa thần TÊVÊDA CŨ (thần coi sóc cũ), đón thần TÊVÊDA MỚI. Trong dịp nầy, ngoài cúng lễ, bà con thường hỏi thăm nhau và chúc mừng lẫn nhau. Buổi tối có đốt pháo thăng thiên. Ban ngày tham dự các trò chơi như thả diều, đánh quay lửa…Trai gái trong làng múa Roam Vông, Lâm Thol, hát Dù Kê, chọi trâu…Vì vậy, tôi dám khẳng định rằng:

• Cho dù tên đồ tể Pôn – Pốt và quân Khmer Đỏ dù có khát máu đến đâu, cũng không vượt biên tấn công làng Ba Chúc, khai sát giới, tàn sát 3.574 dân lành vô tội trong 4 ngày lễ hội truyền thống CHOI-CHNAM-THMAY của dân tộc Kampuchea. Việc ông Trần văn Nhi cáo buộc quân Khmer Đỏ dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa nhằm che đậy tội ác diệt chủng của quân đội CSVN mà thôi.

• Dân tộc Kampuchea theo Phật Giáo Tiểu Thừa. Họ kính trọng sư sãi một cách tuyệt đối. Ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt văn hóa theo nghi lễ cổ truyền, nơi tổ chức các lễ hội hàng năm, là nơi tàng trữ kinh Phật. Bản thân người dân Kampuchea cũng phải trải qua một thời gian niên thiếu ở trong chùa để học giáo lý nhà Phật, đạo lý làm người trước khi ra đời. Cho nên, bộ đội CSVN tập trung dân làng Ba Chúc vào các chùa chiền để tàn sát tập thể rồi vu oan, giá họa cho quân diệt chủng Khmer. Đó là một hành động ngu xuẩn, thiếu khôn ngoan, vì ngôi chùa đối với người Kampuchea là đền thiêng, bọn diệt chủng Khmer Đỏ không bao giờ dám giết người trong các ngôi chùa, rồi phóng hỏa đốt chùa như bọn lãnh đạo CSVN đã tưởng tượng. Hành động giết người tập thể dã man nầy chỉ có bộ đội CSVN vô thần mới dám làm, như chúng đã làm trong biến cố TẾT MẬU THÂN1968 tại HUẾ.

Những vụ giết người tập thể như vậy, giải thích theo ngôn từ của TROTSKY: “Chẳng có ai là đao phủ, chỉ có nạn nhân.” Đúng vậy, cho dù nhân chứng có thấy mặt đao phủ thật sự là bộ đội CSVN, cải trang thành quân Khmer Đỏ, họ có dám đứng tố giác hay không? Không ai còn lạ gì thủ đoạn “giết người bịt miệng” của bọn CSVN. Làm sao những người được chánh quyền CSVN địa phương đưa ra làm nhân chứng, liệu họ có dám nói lên sự thật hay không? Chỉ cần một cái gật đầu, xác nhận bọn CSVN là lũ giết người thì đã toi mạng rồi!

KẾT LUẬN

Chúng tôi hy vọng “ỦY BAN TRUY TỐ TỘI PHẠM CHỐNG NHÂN LOẠI” tiến hành thu thập các tài liệu để làm sáng tỏ về vụ thảm sát nầy và mở lại: “HỒ SƠ CSVN THẢM SÁT 3.574 ĐỒNG BÀO TẠI LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG TRONG THÁNG 4/ 1978” để truy tố tội ác diệt chủng của bọn lãnh đạo Đảng CSVN ra trước TÒA ÁN QUỐC TẾ LAHAY để đền tội.



Một góc khu nhà mồ Ba Chúc

NGUYỄN VĨNH LONG HỒ

————————————————————————–

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Chiến tranh Đông Dương 3 của Hoàng Dung.
- Nửa tháng trong miền Thất Sơn của Nguyễn văn Hầu
- Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt của Lâm Lễ Trinh
- Thư tố cáo tội ác bọn CSVN của ông Trần H.
- Câu chuyện ngôi làng Ba Chúc ở biên giới Miên Việt của Hoàng Quý
- Ba Chúc ngày 16 tháng 3…Phóng sự của Lục Tùng.
- When the Khmer Rouge came to kill in Vietnam của James Pringle.
(Vietlinh)



bon việt gian Cộng Sản nguy tao tài liêu sau đây

thảm sát Ba Chúc

Bao năm đã trôi qua nhưng chưa một giây phút nào những người dân Ba Chúc nguôi ngoai cái cảm giác kinh hoàng của 11 ngày đêm tang thương của năm 1978. Bia đá của lòng căm thù đã được những người còn sống dựng lên, những lớp sọ người chất chồng lên nhau như nỗi đau chất lên nỗi đau thấu tới trời xanh. Nước mắt mãi mãi chảy ngược về quá khứ. Chưa có vụ thảm sát nào, chưa có tội ác nào kinh hoàng và rùng rợn như thế!...

3.157 NGƯỜI DÂN VÔ TỘI BỊ SÁT HẠI

Nằm dưới chân dãy Thất Sơn hùng vĩ, Ba Chúc là một xã thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Cách biên giới Việt Nam - Campuchia 7 km đường chim bay, vùng đất này là cửa ngõ mở xuống đồng bằng miền Tây Nam Bộ. Về Ba Chúc hôm nay, dưới những rặng dừa tỏa bóng bình yên bên những cánh đồng lúa ngậm sữa, không ai ngờ tới hơn 20 năm trước mảnh đất này đã phải từng gánh chịu một nỗi tang thương, đau đớn đến thế! Cùng với những hồi ức của người dân Ba Chúc, chúng tôi đi ngược thời gian...

Ngày 30/4/1977, bọn diệt chủng (việt gian Cộng Sản ) Pôn Pốt vô cớ xua quân tấn công vào 8 tỉnh Tây Nam của Tổ quốc, trong đó có An Giang mà xã Ba Chúc là một điểm trọng yếu trong hướng tấn công của chúng. Vùng đất nhỏ bé này đã phải chịu đựng 30 lần tấn công của chúng. Ðỉnh cao của tội ác là vụ thảm sát 3.157 người dân vô tội, từ ngày 18/4 đến 30/4/1978.

Sáng 18/4, sau khi chọc thủng phòng tuyến của du kích xã, bọn Pôn Pốt xua quân vào Ba Chúc. Xã bị dìm trong biển lửa và máu. Những cảnh tượng giết người hàng loạt dã man hơn cả thời trung cổ: Bắn người tập thể, dùng búa đập đầu, cắt cổ; với trẻ em thì chúng xé làm đôi hoặc nắm hai chân đập đầu vào gốc cây, vách tường, bờ đất hay tung lên và xóc lưỡi lê vào cơ thể; với phụ nữ thì bọn dã thú hãm hiếp, dùng dao xẻo vú, thọc tầm vông, cán búa hoặc nhét đất đá vào chỗ kín cho đến chết. Những người dân Ba Chúc từng chứng kiến đã rùng mình hồi tưởng và cho đến bây giờ họ vẫn thảng thốt ngạc nhiên tại sao có những kẻ mang khuôn mặt con người mà độc ác, dã man đến như vậy!...

Cùng với một người bạn sinh ra ở Ba Chúc, chúng tôi đến thăm những địa danh ghi lại tội ác của bọn diệt chủng. Ðã hơn 20 năm mà tiếng mõ cầu kinh của chùa Tam Bửu vẫn rền rĩ ngân thảm thương như tiếng vọng của những oan hồn. Những ngày cuối tháng 3/1978, khi Pôn Pốt lấn qua biên giới, nhân dân thường chạy vào chùa trú ẩn vì cứ ngỡ rằng chúng sẽ không giết người trước Ðức Phật từ bi. Ai ngờ rằng, ngày 17/4, loạt pháo đầu tiên chúng bắn trúng hậu liên Tam Bửu tự. 40 người chết không toàn thây, 20 người bị thương, máu loang đỏ nền chùa, tiếng kêu la cất lên thảm thiết. Sáng hôm sau, giặc tràn vào chùa Tam Bửu và bắt hơn 800 người đang ẩn nấp nơi đây và xua họ đi thảm sát tập thể ở cánh đồng Cầu Sắt và giồng Ông Tướng. Ðối diện với chùa Tam Bửu là chùa Phi Lai. Ba giờ chiều hôm đó giặc tràn vào đây và xả súng bắn chết tại chỗ 80 người; 100 người khác kinh sợ bỏ chạy cũng bị chúng dùng báng súng và khúc cây đánh chết; 40 người khác nấp dưới bàn thờ Phật cũng bị lựu đạn tung vào chỉ sống sót 1 người. Những hang đá trên núi Tượng (Kỳ Lân Sơn trong dãy Thất Sơn) đã trở thành những mồ chôn người tập thể. Trong hang Ba Lê, 50 người trong một dòng họ không còn sót một ai và bên cạnh là giồng Ông Tướng đã vùi thây 100 sinh linh vô tội khác. Hang Cây Da có 17 người vào trốn, chúng xả súng giết ngay 14 người, hiếp dâm chị Chuột rồi dùng cây đâm vào cửa mình cho đến chết, hai người liều mình chạy thoát là anh Phan Văn Ba và người con trai 19 tuổi của mình. Bạn tôi kể lại, sau ngày bọn Pôn Pốt đã bị đẩy về bên kia biên giới, nhân dân Ba Chúc đã gom góp xương tàn của những người xấu số chất đầy cả... mấy chiếc xe bò!...


NHỮNG NHÂN CHỨNG SỐNG

Trước mặt chúng tôi là một ông già tiều tụy, những nét đau khổ khắc sâu trên gương mặt ông, đó là Trần Văn Tỏ. Người cha bất hạnh ấy quặn thắt ruột gan mà kể lại cho chúng tôi câu chuyện thương tâm. Ðây là nỗi ám ảnh chưa một giây phút nào thoát ra khỏi con tim và khối óc ông, ông sống mà cứ nghĩ như mình đã chết. Ông Tỏ kể:

Tại hang Ðồ Ðá Dựng nằm trong lòng núi Tượng có 72 người trốn, trong đó có 4 cháu nhỏ. Do ở hang lâu ngày thiếu ăn, khát nước và bệnh tật, trẻ la khóc suốt ngày. Ðể đảm bảo bí mật cứu lấy số đông, mọi người phải đau lòng nghĩ đến chuyện bức tử các cháu bé nhưng không ai dám nỡ lòng. Ðến ngày 29/4, một tên nữ cán bô việt gian Cộng Sản giả Khơme Ðỏ đi do thám và phát hiện tiếng trẻ khóc, thị la lên "thận or" (có người) và chạy đi báo thượng cấp. Trước nguy cơ tất cả bị tàn sát, mọi người quyết định phải tự tay giết 4 cháu bé. Ðứa con trai lên 5 của anh Trần Văn Tỏ biết mình sắp phải chết đã thảng thốt van xin: "Ba ơi! Ðừng giết con!". Anh Tỏ đã cố nén đau thương bóp mũi đứa con trai thương yêu của mình cho đến chết. Rồi tiếp đó là ông Hai Khế, ông Tư Ðức đã lần lượt tự tay giết ba đứa cháu nội của mình. Ba tiếng đồng hồ sau, bộ đội việt gian Cộng Sản ) tấn công vào, những người dân trong hang Ðồ Ðá Dựng ôm 4 đứa trẻ vẫn còn hơi nóng mà đứt từng khúc ruột...

Bà Hà Thị Nga cũng là một nạn nhân còn sống sót sau vụ thảm sát. Ngôi nhà trơ trọi của bà cũng hoang lạnh đến rợn người nằm sát bên Nhà mồ Ba Chúc. Khi chúng tôi vào nhà, bà thắp nhang xá bốn phương tám hướng và cắm lên vô số bát nhang. Trên gương mặt như vô hồn của người phụ nữ chịu quá nhiều đau thương chợt đanh lại và ép ra những giọt nước mắt khi phải hồi ức về những ngày bi thảm.
Bà sinh năm 1939, lúc ấy 39 tuổi. Cả dòng họ trên 100 người của bà đã bị bọn việt gian Cộng Sản giết hại; riêng gia đình bà đã vĩnh viễn mất đi 37 người, từ cha mẹ, anh chị, chồng và 6 đứa con thân yêu. Bà đã tận mắt chứng kiến kẻ thù giết hại những đứa con của mình. Ðứa gái út bị chúng đập đầu ba lần không chết vẫn ngẩng đầu kêu "Mẹ ơi!" đau đến xé lòng. Bà đã ngất xỉu đi và gục lẫn vào đống xác người cho nên thoát chết.
Còn chị Nguyễn Thị Ngọc Sương năm ấy mới 11 tuổi - cha mẹ và tất cả anh chị em đều bị sát hại. Sương kể trong nước mắt: Chiều 18/4, giặc tràn vào chùa Tam Bửu và lùa bà con đi tàn sát tập thể, Sương chạy theo cha. Tại cánh đồng Cầu Sắt - Vĩnh Thông, cha chị cầm tay con mà dặn: "Cha còn 7 đồng bạc, con cầm lấy". Giặc bắn cha chị, xác nằm chung với hàng trăm người khác. Chị cũng bị bắn vào đầu và ngực nhưng may mắn không chết. Ban ngày Sương đi lượm xoài ăn, tối về nằm bên xác cha. Qua 11 ngày đêm, các vết thương trên người chị nhiễm trùng thối rữa ra. Sau thảm họa, chính quyền địa phương đã đưa chị đi bệnh viện điều trị ba tháng sau mới lành.
Ông Nguyễn Văn Kỉnh là một trong 300 người bị bọn chúng dẫn đi tàn sát ở cánh đồng Vĩnh Thông. Ông kể, chúng chia từng tốp 20-30 người rồi đồng loạt nã đạn, đến tốp ông Kinh, khi súng nổ ông hoảng sợ chết ngất. Sáu xác người khác phủ lên người ông. Khi tỉnh lại ông bàng hoàng nhìn cảnh tượng xung quanh và muốn chết thật đi khi nhìn thấy đứa cháu ngoại 5 tháng tuổi của mình đang day vú mẹ trong khi người con gái của ông tắt thở tự lâu rồi...


DI TÍCH CỦA LÒNG CĂM THÙ

Năm 1977, Ba Chúc chỉ có 16 ngàn dân mà chỉ trong 11 ngày 3.157 người vô tội bị giặc sát hại, phần lớn trong số họ là người già, phụ nữ và trẻ em. Trên 100 hộ bị giết sạch không còn ai sống sót, giữa lòng Ba Chúc hôm nay vẫn còn đó những nền nhà cũ bám rêu. Trên mảnh đất nhỏ bé này đến hôm nay vẫn như còn nhuốm máu. Những người dân Ba Chúc hình như không đủ niềm vui để nở một nụ cười. Chính quyền và nhân dân An Giang đã xây dựng tại đây quần thể chứng tích tội ác và Nhà nước đã công nhận là Di tích Căm thù theo Quyết định 92/VH-QÐ ngày 10/7/1980.

Trước mặt chúng tôi là nhà mồ Ba Chúc. Nhà mồ có hình lục giác, mỗi góc là một cột đỡ mái nhà bằng hình tượng bàn tay cầm chuôi kiếm đẫm máu giương thẳng. Chính giữa nhà mồ là khung hộp kính tám cạnh, chứa trong đó 1.159 hài cốt của những người dân vô tội; số còn lại đã được chôn cất và rất nhiều hài cốt khác đã lẫn vào đất đá hay chìm lấp trong các hang sâu trên dãy Kỳ Lân Sơn. Trước chứng tích của lòng căm thù, nỗi đau không thể cất thành lời, chúng tôi chỉ biết cúi đầu tưởng niệm. Tiếng vọng của những oan hồn mãi mãi ám ảnh trong lòng những người dân Ba Chúc, những người dân Việt Nam, thức tỉnh lương tri của những người dân Campuchia chân chính và nhân loại yêu chuộng hòa bình

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TỘI ÁC việt gian Cộng Sản VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM








TỪ THẢM SÁT DÂN HUẾ 1968 ĐẾN THẢM SÁT DÂN LÀNG BA CHÚC 1



Việt cộng Thảm sát 3157 đồng bào Làng BA CHÚC ,Tỉnh An Giang
Đêm 18 Tháng 4 1978 Nếu thật sự có quân Khmer Rouge tàn sát dân Việt từ ngày 18 tháng 04 cho đến ngày 29 tháng 04 năm 1978,thì tại sao các đơn vị của sư đoàn 330 đang đảm nhiệm việc thành lập tuyến phòng thủ và trấn đóng tại huyện Tri Tôn (làng Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn), lại không thể nghe hay phát hiện ra biến cố trong đêm 18 tháng 04 năm 1978.???

Ai đã ra lệnh tập trung tất cả 3.157 thường dân vào trong các chùa và trường học.???Để bắn giết tàn sát hàng loạt dân làng Ba chúc???
Điều nầy khác hẳn với phương thức giết người theo kiểu “Cáp-Duồng” của người Miên, nghiã là tàn sát dân Việt Nam tại chổ, gặp đâu giết đó.

http://ghpgvntn-toiacphatgiaoanquang.blogspot.com/2010/04/bon-viet-gian-cong-san-giet-3157-dan.html